/ Tin tức
/ Bộ Tài chính phản hồi về kiến nghị miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Bộ Tài chính phản hồi về kiến nghị miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

16/08/2024 06:32 |

(LSVN) - Đánh giá về tình hình thực hiện chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, Bộ Tài chính cho rằng khả năng điều tiết của sắc thuế này còn thấp. Số thu thuế hàng năm bình quân khoảng 1.700 tỉ đồng, chiếm khoảng 0,14% tổng thu ngân sách Nhà nước...

Ảnh minh họa.

Bộ Tài chính vừa có Văn bản số 8024/BTC-CST trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Vĩnh Long đề nghị sửa đổi Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, bởi thực tế qua công tác thu thuế đất phi nông nghiệp ở địa phương nhiều năm qua cho thấy hiệu quả chính sách này không cao do diện tích đất nằm trong hạn mức chịu thuế của người dân còn rất ít. Vì vậy, cử tri tỉnh Vĩnh Long đề xuất Bộ Tài chính cần nghiên cứu trình Quốc hội xem xét miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Bộ Tài chính cho biết, Hiến pháp năm 2013 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Luật Đất đai năm 2024 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất (Điều 12); một trong những nguyên tắc sử dụng đất là sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả (Điều 5).

Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai, Nhà nước đã ban hành các chính sách tài chính đối với đất đai, trong đó có chính sách thuế sử dụng đất. Hiện hành, chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được thực hiện theo quy định tại Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp số 48/2010/QH12, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012.

Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp quy định đối tượng chịu thuế bao gồm: đất ở (đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị); đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh.

Hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế là hạn mức giao đất ở mới theo quy định của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Còn thuế suất thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với đất ở áp dụng theo biểu thuế lũy tiến từng phần, theo đó thuế suất 0,03% đối với phần diện tích trong hạn mức, 0,07% đối với phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức, 0,15% đối với phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức.

Đối với đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất phi nông nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh áp dụng thuế suất là 0,03%.

Theo Bộ Tài chính, qua đánh giá tình hình thực hiện chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp cho thấy khả năng điều tiết của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp còn thấp. Số thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp bình quân khoảng 1.700 tỷ đồng/năm, chiếm khoảng 0,14% tổng thu ngân sách nhà nước.

Về bất cập của sắc thuế này, nhiều ý kiến cho rằng mức thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tính theo giá đất do uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành nên xa giá thị trường. Ở nhiều địa phương có giá đất thấp dưới nên số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải nộp của nhiều hộ gia đình, cá nhân rất thấp.

Mức thuế sử dụng đất phi nông nghiệp thấp dẫn đến mục tiêu của thuế sử dụng đất phi nông nghiệp chưa đạt được, nhất là mục tiêu góp phần điều tiết đối với người sử dụng nhiều thửa đất và không hạn chế được đầu cơ bất động sản. Bởi từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy số thu thuế đối với việc sử dụng đất của các nước chiếm khoảng 2 - 4% GDP.

Căn cứ Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã có Báo cáo số 71/BC-CP ngày 16/3/2023 gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả triển khai thực hiện Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15, trong đó đã báo cáo kết quả rà soát, nghiên cứu đối với Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Thực hiện nhiệm vụ nêu trên, hiện các nội dung liên quan đến hoàn thiện chính sách thuế đối với người sử dụng đất đang được Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tổng thể để kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung vào thời điểm thích hợp nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống chính sách thuế và đặt trong tổng thể cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2021-2030.

MINH QUÝ

Bộ GTVT trả lời kiến nghị về phân cấp quản lý trong lĩnh vực đăng kiểm

 

Nguyễn Hoàng Lâm