/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Các trường hợp giãn, hoãn, xóa nợ theo quy định của pháp luật hiện hành

Các trường hợp giãn, hoãn, xóa nợ theo quy định của pháp luật hiện hành

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Theo Thông báo số 371/TB-VPCP về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về các biện pháp khắc phục thiệt hại do mưa lũ, sạt lở và bão số 9 gây ra tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, để khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định đời sống, khôi phục sản xuất do thiệt hại nặng nề bởi mưa lũ lớn và bão số 09, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp bị thiệt hại do mưa lũ lớn và bão số 09 gây ra như giãn, hoãn, xóa nợ… theo quy định của pháp luật.

Ảnh minh họa Nguồn: Internet.

Hiện nay, các trường hợp giãn, hoãn, xóa nợ... được quy định tại Luật Quản lý thuế 2019, Nghị quyết 94/2019/QH14 về khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp đối với người nộp thuế không có khả năng nộp ngân sách nhà nước, Thông tư 69/2020/TT-BTC quy định hồ sơ và trình tự, thủ tục xử lý nợ theo Nghị quyết số 94/2019/QH14 ngày 26 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội.

Các trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt

Các trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạtđược quy định tại Điều 85 Luật quản lý thuế 2019 bao gồm:

Thứ nhất, doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật về phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.

Thứ hai, cá nhân đã chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản, bao gồm cả tài sản được thừa kế để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ.

Thứ ba, các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại điểm g khoản 1 Điều 125 của Luật này và các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt này đã quá 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng không có khả năng thu hồi.

Người nộp thuế là cá nhân, cá nhân kinh doanh, chủ hộ gia đình, chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đã được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt quy định tại khoản này trước khi quay lại sản xuất, kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới thì phải hoàn trả cho Nhà nước khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã được xóa.

Thứ tư, tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với các trường hợp bị ảnh hưởng do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh có phạm vi rộng đã được xem xét miễn tiền chậm nộp theo quy định tại khoản 8 Điều 59 của Luật này và đã được gia hạn nộp thuế theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 62 của Luật này mà vẫn còn thiệt hại, không có khả năng phục hồi được sản xuất, kinh doanh và không có khả năng nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.

Các trường hợp được xử lý nợ

Theo Nghị quyết 94/2019/QH14 về khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp đối với người nộp thuế không có khả năng nộp ngân sách nhà nước và Thông tư 69/2020/TT-BTC quy định hồ sơ và trình tự, thủ tục xử lý nợ theo Nghị quyết số 94/2019/QH14 của Quốc hội thì đối tượng được xử lý nợ được chia thành 2 nhóm chính. Nhóm 1 là các đối tượng được khoanh nợ tiền thuế kể từ ngày 01/7/2020, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp còn nợ trước ngày 01/7/2020 và Nhóm 2 là các đối tượng được xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp

Nhóm 1 là các đối tượng được khoanh nợ tiền thuế kể từ ngày 01/7/2020, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp còn nợ trước ngày 01/7/2020.

Thứ nhất, người nộp thuế đã chết, người bị tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự.

Điều kiện là cá nhân có giấy chứng tử hoặc giấy báo tử hoặc quyết định của tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hoặc các giấy tờ thay cho giấy báo tử theo quy định của pháp luật, hoặc xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã, cơ quan công an cấp xã xác nhận người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự.

Thứ hai, người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh để làm thủ tục giải thể, cơ quan đăng ký kinh doanh đã thông báo người nộp thuế đang làm thủ tục giải thể trên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, nhưng người nộp thuế chưa hoàn thành thủ tục giải thể.

Điều kiện là doanh nghiệp có quyết định giải thể; thông báo của cơ quan đăng ký kinh doanh về việc người nộp thuế đang làm thủ tục giải thể trên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

Thứ ba, người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, hoặc đã bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.

Với trường hợp này, người nộp thuế phải đáp ứng điều kiện là đã có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; tòa án có thông báo thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Thứ tư, người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế.

Trường hợp này phải đáp ứng điều kiện như: Cơ quan quản lý thuế có biên bản xác minh tình trạng hoạt động của người nộp thuế tại địa chỉ đã đăng ký với chính quyền địa phương về việc người nộp thuế không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh.

Đối với trường hợp người nộp thuế là doanh nghiệp, tổ chức thì phải có thêm thông báo người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, hoặc thông báo cơ sở kinh doanh bỏ địa chỉ kinh doanh của cơ quan quản lý thuế.

Thứ năm, người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hành nghề theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế.

Để được khoanh, xóa nợ trường hợp này, cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi, hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế; cơ quan thuế đã ban hành các quyết định về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; văn bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nộp thuế đăng ký địa chỉ hoạt động kinh doanh về việc người nộp thuế không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh tại thời điểm đề nghị xoá nợ.

Nhóm 2 là là các đối tượng được xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp.

Thứ nhất, người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ được xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp với điều kiện người nộp thuế có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người nộp thuế bị thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ và thời gian, địa điểm xảy ra; có văn bản đánh giá giá trị thiệt hại vật chất do người nộp thuế lập và có xác nhận về giá trị thiệt hại của tổ chức kiểm toán độc lập, cơ quan thẩm định giá hoặc cơ quan bảo hiểm.

Trường hợp này cần lưu ý là số nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp được xóa được tính trên số nợ tiền thuế phát sinh không có khả năng thu do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ gây ra và không vượt quá giá trị tài sản, hàng hóa bị thiệt hại sau khi trừ các khoản được bồi thường, bảo hiểm (nếu có). Người nộp thuế phải là trường hợp chưa được xử lý miễn tiền chậm nộp từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 có hiệu lực thi hành.

Thứ hai, người nộp thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư và được chủ đầu tư trực tiếp thanh toán nhưng chưa được thanh toán. Với điều kiện là người nộp thuế có hợp đồng kinh tế ký với đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhà nước (nếu người nộp thuế là nhà thầu phụ thì phải được quy định cụ thể trong hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng và được đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhà nước trực tiếp thanh toán); biên bản nghiệm thu công trình, hạng mục công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước hoặc hóa đơn cung ứng hàng hóa dịch vụ; có văn bản xác nhận của đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhà nước về.

Như vậy, có thể nói trong tình hình mưa lũ, sạt lở và bão số 9 tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, với Thông báo số 371/TB-VPCP Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp bị thiệt hại do mưa lũ lớn và bão số 09 gây ra như giãn, hoãn, xóa nợ để khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định đời sống, khôi phục sản xuất là rất kịp thời và cần thiết.

Việc xóa nợ cho những cá nhân, tổ chức không còn khả năng thu vào ngân sách do bị ảnh hưởng do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh có phạm vi rộng không chỉ giúp các cá nhân tổ chức ổn định lại cuộc sống, khôi phục sản xuất kinh doanh mà còngiúp giảm chi phí, vật lực, nhân lực tham gia theo dõi, quản lý những khoản nợ không còn đối tượng để thu, giúp cơ quan thuế, hải quan có điều kiện tập trung nguồn lực vào việc quản lý và đôn đốc các khoản nợ có khả năng thu, tăng cường hiệu lực và hiệu quả trong quản lý thuế, chống thất thu, tăng thu cho ngân sách.

Tuy nhiên, để đảm bảo chặt chẽ trong việc thực hiện xóa nợ đọng thuế, tránh lợi dụng thất thu ngân sách nhà nước thì Luật Quản lý thuế đã quy định trách nhiệm của người nộp thuế đã được xóa nợ, nếu quay lại kinh doanh thì trước khi quay lại sản xuất, kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới, người nộp thuế phải hoàn trả cho Nhà nước khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã được xoá.

Cơ quan quản lý thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh, chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm các khoản tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã được xóa phải được hoàn trả vào ngân sách nhà nước trước khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

MỸ LINH

/dau-hieu-oan-sai.html