/ Dọc đường tố tụng
/ Đình chỉ tranh chấp đất nhưng vẫn tuyên hủy GCNQSDĐ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự

Đình chỉ tranh chấp đất nhưng vẫn tuyên hủy GCNQSDĐ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự

09/12/2023 12:57 |

(LSVN) - Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự, khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Trong vụ án dân sự, việc hủy quyết định cá biệt trái pháp luật là hệ quả của việc giải quyết tranh chấp về dân sự và là quyền của Tòa án, không phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu. Việc xác định quyết định cá biệt là trái pháp luật phải căn cứ vào việc giải quyết tranh chấp về dân sự.


Ảnh minh họa.

Ngày 22/11/2023, VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt” để VKSND cấp tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự.

Nội dung vụ án sơ thẩm bị hủy để giải quyết lại

Nguyên đơn là bà Phan Thị C. khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại 578,2m2 thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26 tại thôn K, xã T, huyện N, tỉnh Q; yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cấp cho hộ bà Phan Thị C. đối với thửa đất 175b, tờ bản đồ số 26, diện tích 1.040m2; và  hủy một phần GCNQSDĐ cấp cho bà Nguyễn Thị G. đối với thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m2.

Quá trình giải quyết vụ án

Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 23/02/2023 của TAND tỉnh Q, quyết định:Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị C. về việc:“Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt” với bị đơn bà Nguyễn Thị G.Hủy một phần GCNQSDĐdo UBND huyện N cấp cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1993 đối với thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m2.

Hủy một phần GCNQSDĐdo UBND huyện N cấp cho hộ bà Phan Thị C. ngày 26/12/1996 đối với thửa đất 175b, tờ bản đồ số 26, diện tích 1.040m2.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị C. về việc buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại cho bà Phan Thị C. diện tích 578,2m2 đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26.

Chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản và đo vẽ phần đất tranh chấp bà Nguyễn Thị G phải hoàn trả cho bà Phan Thị C là 7.500.000 đồng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị G kháng cáo bản án sơ thẩm.

VKSND Cp cao tại Đà Nẵng ban hành kháng nghị phúc thẩm theo hướng hủy Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Q giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 165/2023/DS-PT ngày 18/7/2023 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị G.; chấp nhận kháng nghị của VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng.

Những vi phạm cần rút kinh nghiệm

Ngày 26/12/1996, UBND huyện N cấp GCNQSDĐ cho hộ bà Nguyễn Thị G. và hộ bà Phan Thị C. tại các thửa đất đã kê khai đăng ký nêu trên. Hộ bà Nguyễn Thị G. (ông Phan Văn Â.) sử dụng một phần thửa đất số 175a và một phần thửa đất số 175b, tờ bản đồ số 26 để xây dựng nhà ở và sản xuất nông nghiệp; hộ bà Phan Thị C. (ông Lê Bá S.) sử dụng một phần thửa đất số 175a và một phần thửa đất số 175b để trồng keo.

Theo trích đo bản đồ địa chính ngày 02/4/2022, diện tích 578,2m2 đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m2 được UBND huyện N cấp GCNQSDĐ cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1996.

Tại Công văn số 324/UBND-TNMT ngày 27/3/2020, UBND huyện N đã xác nhận: Theo sổ mục kê đất đai lập theo Nghị định 64/CP, thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m2, loại đất thổ cư do bà Nguyễn ThịG. kê khai, đăng ký đứng tên; bà Phan Thị C. kê khai, đăng ký đứng tên tại thửa đất số 175b, tờ bản đồ số 26, diện tích 1.040m2, loại đất thổ cư,  đến ngày 26/12/1996, UBND huyện N cấp GCNQSDĐ cho hộ bà Nguyễn Thị G. và hộ bà Phan Thị C. tại các thửa đất đã kê khai đăng ký nêu trên. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, 02 hộ gia đình không sử dụng đất theo ranh giới, diện tích của GCNQSDĐ đã cấp.

Theo trích đo bản đồ địa chính số 01-2022 Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Q đo vẽ ngày 02/4/2022, diện tích 578,2m2 đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m2 được UBND huyện N cấp GCNQSDĐ cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1996.

Nguyên đơn bà Phan Thị C. khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại diện tích 578,2m2 đất thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26; yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ do UBND huyện N cấp cho hộ bà Phan Thị C ngày 26/12/1996 đối với thửa đất 175b và hủy một phần GCNQSDĐ do UBND huyện N cấp cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1993 đối với thửa đất 175a.

Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy quyết định cá biệt” là đúng quy định tại khoản 5 Điều 26 và Điều 34 BLTTDS. Tuy nhiên, tại phiên toà sơ thẩm nguyên đơn rút yêu cầu về việc buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại diện tích 578,2m2 đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26 và Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 244 BLTTDS, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự, khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Trong vụ án dân sự, việc hủy quyết định cá biệt trái pháp luật là hệ quả của việc giải quyết tranh chấp về dân sự và là quyền của Tòa án, không phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu. Việc xác định quyết định cá biệt là trái pháp luật phải căn cứ vào việc giải quyết tranh chấp về dân sự.

Trong vụ án này nguyên đơn rút yêu cầu về việc buộc bà Nguyễn Thị G.trả lại diện tích 578,2m2 đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a. Như vậy, các bên không còn tranh chấp về dân sự nên việc Tòa án cấp sơ thẩm hủy quyết định cá biệt không xuất phát từ việc giải quyết tranh chấp về dân sự là không đúng qui định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thu thập chứng cứ, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định, đo vẽ diện tích cụ thể thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26 của bà Nguyễn Thị G. và thửa đất số 175b, tờ bản đồ số 26 của bà Phan Thị C. đang quản lý sử dụng theo hiện trạng, lồng ghép với sơ đồ, vị trí, diện tích đất đã được cấp GCNQSDĐ. Sơ đồ phải thể hiện rõ sự chênh lệch, chồng chéo giữa diện tích đất của hộ bà C. và hộ bà G. đang quản lý sử dụng theo hiện trạng thực tế so với diện tích đã được cấp GCNQSDĐ.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án dân sự trong khi đã đình chỉ xét xử đối với yêu cầu dân sự và tuyên hủy một phần đối với hai GCNQSDĐ là không đúng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; buộc bà Nguyễn Thị G. phải trả cho bà Phan Thị C. chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản và đo vẽ phần đất tranh chấp 7.500.000 đồng là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã rút yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất thì nguyên đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản.

ĐẠI HƯNG

Một số ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản

Bùi Thị Thanh Loan