/ Trợ giúp pháp lý
/ Điểm mới trong dự thảo Nghị định về bảo hiểm bắt buộc TNDS cho ô tô, xe máy?

Điểm mới trong dự thảo Nghị định về bảo hiểm bắt buộc TNDS cho ô tô, xe máy?

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng. Trong đó, có đề xuất quy định mới về mức bồi thường bảo hiểm khi xảy ra tai nạn?

Ảnh minh họa.

Hiện nay, Nghị định 03/2021/NĐ-CP không quy định cụ thể mức bồi thường thiệt hại của công ty bảo hiểm khi xảy ra tai nạn mà chỉ nêu tại khoản 2, Điều 8, Nghị định này như sau: "Căn cứ chi phí thực tế về giá dịch vụ khám, điều trị, chăm sóc y tế và chi phí khắc phục thiệt hại đối với tài sản, Bộ Tài chính quy định mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới".

Trong đó, các khoản tiền công ty bảo hiểm phải trả trong phạm vi bồi thường gồm: Thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản của bên thứ ba, hành khác do xe cơ giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn.

Mức trách nhiệm bảo hiểm trong các vụ tai nạn đang được quy định tại Điều 4, Thông tư 04/2021/TT-BTC. Cụ thể:

- Về sức khoẻ, tính mạng: 150 triệu đồng/người/vụ tai nạn.

- Về tài sản:

Do mô tô hai bánh, mô tô ba bánh, xe gắn máy, xe máy điện, xe tương tự: 50 triệu đồng/vụ tai nạn.

Do ô tô, máy kéo, rơ moóc hoặc sơ mi moóc được kéo bởi ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng: 100 triệu đồng/vụ tai nạn.

Trong khi đó, tại dự thảo Nghị định của Bộ Tài chính đã đưa nội dung này tại Thông tư 04/2021/TT-BTC vào dự thảo Nghị định tại Điều 6 và quy định đây chỉ là mức tối thiểu.

Ngoài ra, về trường hợp bảo hiểm không phải bồi thường có thay đổi gì so với Nghị định 03/2021/NĐ-CP hay không. Khoản 2, Điều 7, dự thảo Nghị định nêu rõ, các trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm được từ chối bán bảo hiểm bắt buộc gồm:

- Cố ý gây thiệt hại cho chủ xe, người lái hoặc người bị thiệt hại.

- Lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy để không phải thực hiện trách nhiệm dân sự với chủ xe. Tuy nhiên, lưu ý rằng, nếu mặc dù bỏ chạy sau khi gây tai nạn nhưng đã thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ xe thì không thuộc trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường thiệt hại.

- Lái xe chưa đủ tuổi/quá tuổi; không có giấy phép hoặc dùng giấy phép lái xe không hợp lệ hoặc dùng giấy phép không do cơ quan có thẩm quyền cấp, bị tẩy xoá hoặc đã hết hạn tại thời điểm xảy ra tai nạn hoặc không phù hợp với loại xe phải có giấy phép riêng.

- Thiệt hại gây ra hậu quả gián tiếp: Giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại.

- Lái xe điều khiển xe nhưng có nồng độ cồn trong máu hoặc hơi thở, dùng ma tuý và chất kích thích bị cấm, gây ra thiệt hại với tài sản.

- Thiệt hại với tài sản bị mất cắp/bị cướp trong tai nạn.

- Thiệt hại về tài sản đặc biệt gồm vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.

- Thiệt hại do chiến tranh, khủng bố, động đất.

Như vậy, có thể thấy, so với quy định hiện nay tại Nghị định 03/2021/NĐ-CP, dự thảo Nghị định kế thừa hoàn toàn các trường hợp công ty bảo hiểm không phải bồi thường thiệt hại mà không có thay đổi gì.

HOÀNG TRẦN

Đề xuất quy định mới về thời hạn bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho ô tô, xe máy

Lê Minh Hoàng