/ Luật sư - Bạn đọc
/ Giả danh lực lượng công an, quân đội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xử lý thế nào?

Giả danh lực lượng công an, quân đội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xử lý thế nào?

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Trong tình hình dịch bệnh Covid-19 hiện nay diễn ra rất phức tạp, nhiều đối tượng đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn này để phạm tội, đặc biệt là tội phạm lừa đảo, giả mạo lực lượng công an, quân đội để tiến hành kiểm tra nhà ở, cơ sở kinh doanh, phương tiện giao thông… thậm chí là lập các chốt chặn phòng chống bệnh dịch bệnh để chiếm đoạt tài sản của người dân trái pháp luật, loại tội phạm này hiện đang có xu hướng gia tăng, chúng lợi dụng lòng tin của nhiều người để thực hiện tội phạm thu lợi bất chính, gây bất ổn xã hội trong tình hình hiện nay.

Ảnh minh họa. 

Trong suốt thời gian qua, cả nước đã và đang tập trung đồng lòng phòng chống Covid-19 trong bối cảnh diễn biến dịch bệnh ngày càng phức tạp. Lợi dụng tình hình này, nhiều đối tượng đã lợi dụng lòng tin của nhân dân giả danh, giả mạo lực lượng công an, quân đội để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đáng nói hơn, gần đây còn xuất hiện thêm hiện tượng, hình thức giả danh công an hoàn toàn mới, đó là lợi dụng việc người dân tập trung bày tỏ ý kiến, quan điểm để kích động, lôi kéo và phá hoại tình hình an ninh, trật tự xã hội; giả danh công an để tiến hành kiểm tra trái pháp luật các cơ sở kinh doanh dịch vụ, giả danh công an để lừa “chạy” án; và thậm chí còn vừa giả danh công an vừa làm giả quyết định khởi tố vụ án, bị can tống tiền người vi phạm pháp luật...; một hình thức phổ biến nữa là lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn “chạy” việc làm, “chạy” vào ngành công an và “chạy” trường học chiếm tỷ lệ cao.

Nhưng nguy hiểm hơn cả là việc khi địa phương trong cả nước thực hiện theo Chỉ thị của Chính phủ giãn cách, cách ly xã hội thì những đối tượng này lại giả danh công an lập các chốt chặn Covid-19 trái phép bắt giữ người trái pháp luật; kiểm tra trái phép các cơ sở kinh doanh của người dân để thu lợi; cưỡng đoạt tài sản của người tham gia giao thông; việc này đã gây mất trật tự xã hội và làm tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh ở các địa phương. Tất cả mọi trường hợp giả danh, giả mạo công an để phạm pháp sẽ bị xử lý nghiêm khắc theo quy định pháp luật. Và tùy từng hành vi cụ thể cũng như  tính chất, mức độ phạm tội gây ra, các đối tượng này sẽ bị xử lý về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Cưỡng đoạt tài sản”, “Bắt giữ người trái pháp luật” và “Làm giả giấy tờ, con dấu của cơ quan, tổ chức”.

Theo quy định của pháp luật, quân phục, cảnh phục của lực lượng quân đội nhân dân hay công an nhân dân là những mặt hàng đặc thù, chỉ được sản xuất, cung cấp bởi các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang hay được Nhà nước sản xuất riêng và trang bị, cấp cho các đơn vị, cá nhân trong lực lượng vũ trang để thực thi nhiệm vụ. Việc sử dụng quân phục giống của công an, quân đội để đi lừa đảo sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định 82/2016/NĐ-CP quy định về quản lý, sử dụng quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu và trang phục của quân đội nhân dân Việt Nam đã nêu rõ, nghiêm cấm cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân sản xuất, làm giả, làm nhái, tàng trữ, trao đổi, mua bán, cho, tặng và sử dụng trái phép quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu và trang phục của quân đội nhân dân Việt Nam. Trường hợp vi phạm, tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Như vậy, người bình thường không được tự ý mặc quân phục vì đây là hàng cấm lưu thông trên thị trường.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 19 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về vi phạm quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng trang phục, cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu dành riêng cho lực lượng công an nhân dân:

“1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép trang phục, cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu.

2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi mua, bán hoặc đổi trái phép trang phục, cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu.

3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi sản xuất trái phép hoặc làm giả trang phục, cấp hiệu, phù hiệu, số hiệu.

4. Hình thức xử phạt bổ sung:

Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Khoản 1, 2 và Khoản 3 Điều này.

5. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Khoản 1, 2 và Khoản 3 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Ngoài ra, Điều 32 Nghị định 120/2013 /NĐ-CP quy định về vi phạm quy định về sử dụng quân trang trong quân đội nhân dân cũng nêu rõ:

“1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đội mũ có gắn quân hiệu trái phép;

b) Mặc quân phục có gắn cấp hiệu hoặc phù hiệu, cành tùng, biển tên quân nhân, biểu tượng quân binh chủng trái phép.

2. Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này".

Do quân phục, cảnh phục chỉ được sử dụng cho cá nhân phục vụ trong quân đội nhân dân, công an nhân dân, chính vì vậy hành vi sử dụng trái phép sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật và áp dụng hình phạt bổ sung là tịch thu tang vật vi phạm.

Giả danh lực lượng công an, quân đội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xử lý thế nào?

Hiện nay, tình trạng giả mạo công an, quân đội xảy ra không chỉ ở trên mạng xã hội mà còn diễn ra rất nhiều  thực tế ngoài xã hội. Các đối tượng giả mạo không chỉ mặc trang phục trong ngành đóng giả mà để mục đích là để lừa đảo hoặc thực hiện các hành vi vi phạm phạm pháp luật. Theo quy định của pháp luật, nếu giả mạo công an hay quân đội nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào số tiền chiếm đoạt mà người thực hiện hành vi có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự. 

Xử lý vi phạm hành chính

Người thực hiện hành vi giả danh công an để chiến đoạt số tiền dưới 2.000.000 đồng thì tùy thuộc vào tính chất các hành vi đã thực hiện mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, theo quy định tại điểm c khoản 1 hoặc điểm c khoản 2 Điều 15 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/11/2013 về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.

"1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Trộm cắp tài sản;

b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác;

c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;

d) Sử dụng trái phép tài sản của người khác.

2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác;

b) Gây mất mát, hư hỏng hoặc làm thiệt hại tài sản của Nhà nước được giao trực tiếp quản lý;

c) Dùng thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản;

d) Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác;

đ) Mua, bán, cất giữ hoặc sử dụng tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có;

e) Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác.

3. Hình thức xử phạt bổ sung

Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm a, b, c Khoản 1; Điểm c, đ, e Khoản 2 Điều này

4. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Truy cứu trách nhiệm hình sự

Theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 mà chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; trường hợp gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; hoặc trong trường hợp tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì người chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng bằng thủ đoạn gian dối sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Trường hợp người phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, trường hợp tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc người phạm tội có hành vi tái phạm nguy hiểm, có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt dể giả mạo công an nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để giả mạo công an nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để giả mạo công an nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Ngoài ra, người giả mạo công an nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Như vậy, đối với hành vi giả mạo lực lượng công an, quân đội để chiếm đoạt tài sản thì tùy vào tính chất, mức độ vi phạm trong từng trường hợp, người phạm tội có thể bị phạt tù lên đến 20 năm hoặc cao nhất là hình phạt tù chung thân. Trong trường hợp cố tình giả mạo công an đồng thời thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì tùy vào tính chất, mức độ vi phạm trong từng trường hợp, người thực hiện có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác" tại Điều 339 Bộ luật Hình sự 2015 với mức phạt là cải tạo không giam giữ lên đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Trường hợp giả mạo cơ quan chức năng tự ý mở các chốt chặn trái phép để vòi tiền người dân nhưng làm lây lan bùng phát dịch bệnh sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 240 tội "Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người". 

NGUYỄN GIA HOÀNG

Viện kiểm sát quân sự khu vực 12/ Quân khu 1

Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện

Lê Minh Hoàng