/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng

Giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Thời gian qua, gắn liền với chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động kinh tế nội địa cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Các thương vụ, giao dịch thương mại trở nên đa dạng và tăng nhanh. Trong đó, hợp đồng thương mại là vấn đề quan tâm chung giữa các thương nhân hay nhiều bên liên quan trong giao dịch thương mại. Thực tế cho thấy, số lượng hợp đồng thương mại gia tăng tỷ lệ thuận với việc tranh chấp hợp đồng thương mại xảy ra ngày càng đa dạng và phức tạp. Điều này đặt ra bài toán khó cho các thương nhân trước khi quyết định bước vào mỗi “cuộc chơi” trên thương trường, bởi lẽ rủi ro phát sinh từ các tranh chấp hợp đồng thương mại là luôn luôn có. Hàng loạt các vụ tranh chấp về hợp đồng xây dựng, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, về hợp đồng dịch vụ logistics,… với những thiệt hại lớn cho thương nhân bởi những chi phí tư vấn, Luật sư,… và đặc biệt là các khoản phạt, bồi thường hợp đồng do sự thiếu hiểu biết và bất cẩn trong việc ký kết hợp đồng. Từ thực tế nêu trên, vấn đề “giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng” đang thực sự được giới kinh doanh quan tâm. Bài viết đưa ra một số phân tích, nhận định liên quan đến vấn đề này.

Ảnh minh họa.

Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng

Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của hợp đồng hết sức quan trọng, đó là một công cụ pháp lý thông dụng nhất trong việc kinh doanh buôn bán, giao dịch và thực hiện các hoạt động thương mại khác. Đây được xem như là cơ sở pháp lý để các bên quy định quyền và nghĩa vụ đối với nhau, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm mục đích xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ, là nền tảng và niềm tin để thực hiện sự thỏa thuận và quyền lợi đối ứng nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận cho mỗi bên.

Theo định nghĩa pháp lý, có thể hiểu rằng hợp đồng được thành lập do sự hợp tác của hai hay nhiều bên, khi đó giữa các đương sự đã có sự thỏa thuận, sự thỏa thuận đủ để tạo lập hợp đồng. Sự thỏa thuận có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức nhưng trên nguyên tắc không bắt buộc phải thể hiện dưới hình thức nào cụ thể, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới đòi hỏi nguyên tắc thể hiện, biểu lộ sự thỏa thuận này phải theo một hình thức nhất định. Đây được xem như là một nguyên tắc cơ bản trong hợp đồng về việc thỏa thuận ý chí và được pháp luật công nhận, quy định cụ thể tại Điều 401 Bộ luật Dân sự năm 2005: “hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể”.

Gắn liền với sự đa dạng trong hoạt động thương mại, một số hợp đồng thương mại phổ biến có thể kể đến như: Hợp đồng mua bán hàng hóa; hợp đồng cung ứng dịch vụ; hợp đồng khuyến mại; hợp đồng trưng bày, giới thiệu hàng hóa dịch vụ; hợp đồng gia công; hợp đồng vận chuyển; hợp đồng ủy quyền; hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa; hợp đồng đại lý thương mại; hợp đồng nhượng quyền thương mại…

Pháp luật hiện hành không trực tiếp đưa ra định nghĩa tranh chấp hợp đồng nói chung cũng như tranh chấp hợp đồng thương mại nói riêng, tuy nhiên, từ các tranh chấp xảy ra trên thực tế, có thể hiểu tranh chấp hợp đồng thương mại là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến của các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại với nhau liên quan đến việc thực hiện hay không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng thương mại. Một số đặc điểm của tranh chấp hợp đồng thương mại có thể dễ dàng nhận thấy như:

(1) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng - là sự thỏa thuận của các bên tại thời điểm ký kết nên các bên tranh chấp luôn có quyền tự định đoạt việc giải quyết tranh chấp;

(2) Tranh chấp hợp đồng thương mại thường mang yếu tố tài sản và gắn liền với lợi ích mỗi bên trong tranh chấp, mầm mống phát sinh của tranh chấp xuất phát từ lợi ích hay sự thỏa mãn lợi ích của các bên không được như kỳ vọng;

(3) Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại cũng tương tự như giải quyết các tranh chấp hợp đồng dân sự thông thường: bình đẳng, tự nguyện, tự do thỏa thuận;

(4) Tranh chấp thương mại thường là tranh chấp giữa các thương nhân;

(5) Thời điểm phát sinh tranh chấp là thời điểm các bên đã giao kết hợp đồng, có thể xảy ra ngay sau khi vừa giao kết xong, đang thực hiện hoặc thực hiện hoàn tất mới xảy ra tranh chấp.

Các tranh chấp hợp đồng thương mại phổ biến

Khi xem xét về tình hình ký kết, thực hiện cũng như các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch liên quan đến hợp đồng thương mại ở Việt Nam thì chưa thể khẳng định một con số cụ thể nào được tổng hợp với các cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền, nghiệp vụ liên quan. Tuy nhiên, đánh giá trên sự tăng trưởng của loại hình thương mại đang có xu thế chiếm tỷ lệ lớn cũng như gia tăng nhanh kết hợp với sự nhìn nhận khách quan khi tiếp cận nhiều vụ việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại thì một số loại hợp đồng thương mại thường xảy ra tranh chấp có thể đề cập đến đó là: (i) hợp đồng mua bán hàng hóa; (ii) hợp đồng đại lý, phân phối và (iii) hợp đồng xây dựng, kỹ thuật và cơ sở hạ tầng.

Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, tranh chấp có thể phát sinh từ các nội dung trong trong hợp đồng liên quan đến:

- Thời gian giao hàng: Bên bán giao hàng chậm.

- Quy định về hàng hóa được giao: Bên bán giao hàng không đúng chủng loại, số lượng như đã cam kết trong hợp đồng hai bên ký kết.

- Nghĩa vụ thanh toán: Bên mua chậm thanh toán, thanh toán không đầy đủ.

- Quy định về chuyển giao hàng hóa: Bên bán vi phạm các điều kiện về thời điểm chuyển giao hàng hóa.

- Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

Đối với hợp đồng đại lý, phân phối, tranh chấp có thể phát sinh từ các nội dung trong trong hợp đồng liên quan đến:

- Quy định về thời gian và loại hàng hóa cung cấp: Nhà sản xuất/người bán không cung cấp hàng hóa cho nhà phân phối/đại lý theo đúng mô tả hợp đồng, hoặc vào thời điểm quy định trong hợp đồng.

- Thỏa thuận về cạnh tranh/phân phối/độc quyền: Nhà sản xuất/người bán cung cấp hàng hóa cho các đối thủ cạnh tranh của nhà phân phối/đại lý, trong trường hợp hợp đồng phân phối quy định rõ ràng cho nhà phân phối/đại lý độc quyền; nhà phân phối/đại lý phân phối hàng hoá ngoài khu vực mà nhà sản xuất/người bán cho phép; nhà phân phối/đại lý chỉ định nhà phân phối phụ/đại lý phụ, trong trường hợp nhà sản xuất/người bán không cho phép điều này; nhà phân phối/đại lý sản xuất các sản phẩm tương tự như các sản phẩm của nhà sản xuất/người bán, trong trường hợp đã thỏa thuận không được sản xuất mặt hàng tương tự.

- Quy định vào thời điểm mua hàng: Nhà phân phối/đại lý không mua của nhà sản xuất/người bán số lượng hàng đã quy định trong hợp đồng, hoặc không mua vào thời điểm đã thỏa thuận.

- Nghĩa vụ thanh toán: Nhà phân phối/đại lý từ chối thanh toán hay thanh toán chậm cho nhà sản xuất/người bán.

Đối với hợp đồng xây dựng, kỹ thuật và cơ sở hạ tầng, tranh chấp có thể phát sinh từ các nội dung trong trong hợp đồng liên quan đến:

- Quy định về quy chuẩn, mô tả kỹ thuật, mô tả thiết kế của công trình: Công trình được xây dựng hoặc thiết kế kỹ thuật không phù hợp với các quy định của hợp đồng.

- Thời hạn hợp đồng: Công trình hoàn thành không đúng thời hạn được quy định trong hợp đồng.

- Quy định về vật liệu, vật tư xây dựng: Việc xây dựng đòi hỏi nhiều các nguyên vật liệu và kết cấu hơn, hoặc các nguyên vật liệu và kết cấu mới không được quy định trong hợp đồng hoặc không theo giá đã thoả thuận.

- Chính sách, quy định liên quan đến việc xây dựng công trình: Thay đổi, chỉnh sửa, bổ sung những quy định, ảnh hưởng tới quy mô và giá cả của các công trình.

- Các nhà thầu phụ được mời thực hiện một phần hợp đồng không thực hiện đúng các quy định hợp đồng đã thoả thuận giữa nhà thầu chính và chủ các công trình.

- Nghĩa vụ thanh toán: Chủ công trình từ chối bảo đảm thanh toán, hoặc từ chối thanh toán toàn bộ hoặc một phần công trình đã hoàn thành.

- Thỏa thuận bảo đảm thực hiện hay bảo trì công trình: Nhà thầu không đưa ra bảo đảm thực hiện, hoặc bất kỳ bảo đảm nào khác.

Các cách giải quyết tranh chấp

Điều 317 Luật Thương mại năm 2005 có quy định các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó, có thể hiểu rằng để giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng có 04 phương thức như sau: (i) thương lượng giữa các bên; (ii) hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải; (iii) giải quyết tại trọng tài hoặc (iv) Tòa án.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng

Thương lượng được xem là phương thức giải quyết tranh chấp có sớm nhất, thông dụng và phổ biến nhất. Phương thức này được áp dụng rộng rãi và như là bước đầu đầu để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong hoạt động thương mại. Thương lượng được định nghĩa là “hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế, theo đó các bên tự bàn bạc để thống nhất cách thức loại trừ tranh chấp mà không cần tới sự tác động hay giúp đỡ của người thứ ba”. Trên cơ sở khái niệm được nêu ra, có thể hiểu rằng, việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự thỏa thuận của các bên tranh chấp mà không có sự can thiệp của bất kỳ bên thứ ba nào, đây cũng là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự nói chung. Ba đặc điểm nổi trội của phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng đó là: (i) giải quyết theo cơ chế nội bộ; (ii) không bị ràng buộc bởi nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp; (iii) quá trình thực hiện thủ tục thương lượng bao gồm cả việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên.

Trên thực tế, phần lớn các tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng hiện nay các bên đều lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng phương pháp thương lượng. Nó cũng được xem như phản ứng đầu tiên của các bên lựa chọn trong quá trình gỡ bỏ những “nút thắt” trong tranh chấp, cũng như hy vọng níu kéo và tiếp tục duy trì mối quan hệ sau khi xảy ra tranh chấp. Một số ưu điểm nổi trội khiến hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thường được “ưu ái” sử dụng như: nhanh chóng, tiện lợi, đơn giản, tiết kiệm chi phí, thủ tục tiến hành linh hoạt; nâng cao khả năng duy trì mối quan hệ và hợp tác các bên; bảo đảm được uy tín cũng như bí mật kinh doanh, thông tin bảo mật của các bên;…

Với những ưu điểm nổi trên, các nhà lập pháp luôn khuyến khích các bên áp dụng phương thức tự thương lượng để giải quyết các tranh chấp trên nguyên tắc tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên. Bên cạnh đó, nhằm mục đích tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, các bên tranh chấp thường cân nhắc nhờ đến sự hỗ trợ của Luật sư hay các chuyên gia pháp lý để được phân tích các cơ sở pháp lý và đưa ra các ý kiến tư vấn pháp lý để các bên hiểu rõ và thấy được quyền và trách nhiệm của mình nhằm tìm hướng giải quyết cũng như dung hòa được quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

Tuy nhiên, song song với hình ưu điểm nói trên, hình thức này có một số nhược điểm, đó là: Nếu các bên không hợp tác, thiếu sự thiện chí, trung thực trong quá trình thương lượng thì khả năng giải quyết thành công là rất ít, kết quả thương lượng thường bế tắc, sự thỏa thuận không mang tính chất chuyên nghiệp vì các bên thường không có hiểu biết chuyên sâu về pháp lý cũng như nghiệp vụ giải quyết tranh chấp. Thêm vào đó, kết quả thương lượng không được bảo đảm bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc và ràng buộc cũng như cơ chế tuân thủ, thực thi kết quả thương lượng. Do vậy, dù các bên có đạt được thỏa thuận để giải quyết tranh chấp thì việc thực thi kết quả thương lượng cũng vẫn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên phải thi hành.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải

Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết tranh chấp đã phát sinh. Có thể nói, phương thức này được xem như một bước tiến của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng việc thương lượng. Có thể các bên hiểu rằng, khi xảy ra tranh chấp thì người trong cuộc khó nhìn nhận và đánh giá vấn đề một cách khách quan được, bởi lẽ thế nên ai cũng muốn cố gắng giành phần hơn về phía mình mà khó sẵn lòng từ bỏ cái nhỏ để đạt được mục đích chung lớn của các bên. Vì vậy, sự có mặt của bên thứ ba với vai trò là người hướng dẫn, giúp đỡ, gợi mở, tạo điều kiện “hợp tác” trong toàn bộ quá trình và hỗ trợ các bên cởi bỏ những “nút thắt” còn vướng trong quá trình giải quyết tranh chấp mà không ngại bị sự chi phối hay tác động khác ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định. Mặc dù có sự tham gia của hòa giải viên hay bên thứ ba nhưng các bên vẫn giải quyết tranh chấp trên cơ sở thương lượng, đàm phán.

Phương thức hòa giải có khá nhiều ưu điểm tương tự như phương thức thương lượng, cụ thể là: Đơn giản, nhanh chóng, chi phí hòa giải thấp; duy trì được quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên; giữ được bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên; hòa giải xuất phát từ sự tự nguyện có điều kiện của các bên, vì vậy các bên thường nghiêm túc thực hiện phương án hòa giải. Hơn thế nữa, phương thức này còn nổi trội với đặc điểm linh hoạt và tính “mở” trong quá trình hòa giải và đưa ra quyết định cuối cùng. So với phán quyết của Tòa án, hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp khá cởi mở. Tại các phiên tòa, chỉ các quyền bị tranh chấp, yêu cầu và các tình tiết và lý do liên quan của các bên được xét xử. Nếu các tình tiết do các bên nêu ra dù được đánh giá quan trọng nhưng nếu được đánh giá không liên quan trực tiếp đến vụ án thì Tòa án cũng sẽ loại trừ để xem xét, đồng thời quyết định của Tòa án chỉ có thể đưa ra dựa trên các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hay yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan (nếu có). Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp bằng phương thức Hòa giải thì khác. Mặc dù hòa giải viên phải đối mặt với một tranh chấp tương đối nhất định ở giai đoạn đầu nhưng các bên có thể đưa ra những tình tiết mới trong quá trình hòa giải. Những tình tiết mới này thường phản ánh những mâu thuẫn sâu sắc giữa các bên mà các bên thực sự muốn giải quyết.

Tuy nhiên, hòa giải cũng có các nhược điểm khiến đây không hoàn toàn là phương thức tối ưu cho các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp cho mọi trường hợp, đặc biệt khi phía còn lại trong tranh chấp không tỏ rõ sự thiện chí giải quyết tranh chấp, như: Hòa giải có thể không được tiến hành nếu như không có sự đồng ý của các bên; thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay Tòa án; một bên có thể lợi dụng thủ tục hòa giải để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc trọng tài vì hết thời hạn khởi kiện.

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc Trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên. Đây cũng là ưu điểm nổi trội và được xem như bước tiến khắc phục nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng Hòa giải. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài được thực hiện theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Pháp luật hiện hành ghi nhận 2 hình thức trọng tài, đó là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực.

Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là chỉ có một cấp xét xử, do đó quyết định của trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên; Các bên được tự do thỏa thuận xét xử theo phương thức trọng tài và lựa chọn một trọng tài dựa trên trình độ, năng lực. Vì vậy, trọng tài có thể theo dõi toàn bộ quá trình tranh chấp để đưa ra cách giải quyết tốt nhất và có hiểu biết sâu về các lĩnh vực chuyên biệt; Hoạt động trọng tài xét xử liên tục nên tiết kiệm được thời gian, tiền bạc; Đây là hình thức xét xử kín, bảo đảm được bí mật cao, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có.

Bên cạnh những ưu điểm, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại, khiến cho phần lớn các doanh nghiệp hiện nay ít lựa chọn trọng tài để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng, đó là: Kết quả của cuộc giải quyết phụ thuộc vào thái độ, thiện chí của các bên tranh chấp; Việc thực thi quyết định trọng tài phụ thuộc vào thiện chí và sự hợp tác của các bên vì tính cưỡng chế không cao, không có bộ máy cưỡng chế như Tòa án; hơn nữa, phán quyết trọng tài có thể bị hủy hoặc yêu cầu Tòa án xem xét lại khi có đơn yêu cầu của một bên; trọng tài không có cơ quan thi hành, giúp việc như Tòa án nên có thể gặp khó khăn trong quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, lấy thông tin cá nhân nếu như bên đó không hợp tác.

Giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án

Đây là phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên thông qua cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết. Tóa án là cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện việc xét xử theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án có những thuận lợi, như: Quyết định của tòa được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước, có cơ quan thi hành án chuyên trách và có đầy đủ phương tiện để thi hành; giải quyết tại Tòa án có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế bảo đảm bản án, quyết định đó được chính xác, công bằng, khách quan, đúng pháp luật.

Song song với đó là một số khó khăn, bất cập còn tồn tại, cụ thể là: Các bên tranh chấp phải chấp nhận thủ tục tố tụng chung được quy định trong pháp luật quốc gia, không có bất kỳ sự lựa chọn nào khác nên thiếu đi tính linh hoạt. Thủ tục tố tụng Tòa án thường kéo dài, phức tạp và khó dự đoán kết quả giải quyết. Trong thủ tục xét xử ở Tòa án, các bên không có cơ hội để lựa chọn cho mình một người xét xử mà do Tòa án chỉ định. Nguyên tắc xét xử tại Tòa án là công khai, dẫn đến việc không bảo đảm giữ kín những thông tin, bí mật kinh doanh của các bên tham gia hợp đồng thương mại. Quy trình, thủ tục tố tụng kéo dài, mất thời gian của các bên tranh chấp, chưa kể đến việc trên thực tế, phán quyết của Tòa án thường bị kháng cáo, điều này khiến cho quá trình tố tụng có thể bị trì hoãn, có thể phải qua nhiều cấp xét xử, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, phương thức giải quyết này cũng mang tính cưỡng chế thi hành quyết định cao nhất, chỉ khi các bên không còn tìm được tiếng nói chung cũng như không nhìn thấy được khả năng tự thỏa thuận thì sẽ tìm đến phương thức giải quyết này. Bởi lẽ vì thế, hầu hết các tranh chấp được giải quyết tại Tòa án thì sau đó các bên sẽ không còn khả năng tiếp tục hợp tác kinh doanh, chấm dứt mối quan hệ.

Đánh giá

Trên cơ sở những phân tích các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng nói trên, có thể nhận thấy rằng mỗi phương thức đều có ưu và nhược điểm. Các bên khi phát sinh tranh chấp sẽ cân nhắc nhiều yếu tố để lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp như: đã có thỏa thuận phương thức giải quyết tranh chấp giữa hai bên hay chưa, sự thiện chí giải quyết tranh chấp của các bên, khả năng khắc phục vi phạm của bên vi phạm, mức độ vi phạm hợp đồng, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và khả năng khắc phục…

Để có cái nhìn toàn diện, dưới đây là bảng tóm tắt khái quát so sánh các phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên một số tiêu chí như sau:

 

Thương lượng

Hòa giải

Trọng tài

Tòa án

Văn bản pháp lý điều chỉnh

Chưa có

Nghị định 22/2017/NĐ-CP

Luật Trọng tài thương mại năm 2010

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Đối tượng giải quyết tranh chấp

Các bên tranh chấp

Hòa giải viên

Trọng tài viên

Thẩm phán

Nguyên tắc giải quyết

Phụ thuộc ý chí của các bên

Bí mật (trừ khi có thỏa thuận hoặc quy định khác)

Không công khai (trừ khicác bên có thỏa thuận)

Công khai vụ án (trừ các tranh chấp thuộc trường hợp không công khai theo quy định của pháp luật)

Phạm vi giải quyết

Do các bên thỏa thuận

Do các bên thỏa thuận

Theo yêu cầu của bên khởi kiện

Theo yêu cầu của bên khởi kiện

Tính ràng buộc pháp lý

Không mang tính ràng buộc, có ý nghĩa khuyến khích các bên tự thực hiện

Không mang tính ràng buộc và không bắt buộc thi hành

Phán quyết mang tính chất chung thẩm, có sự ràng buộc, bắt buộc các bên phải thi hành

Quyết định bắt buộc các bên phải thi hành, nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế

Điều kiện áp dụng phương thức giải quyết

Không theo bất kỳ điều kiện nào, việc tiến hành tùy thuộc vào ý chí thống nhất của các bên.

Phải có thỏa thuận giữa các bên về giải quyết bằng hòa giải thương mại

- Có thỏa thuận về việc giải quyết bằng trọng tài thương mại

- Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại

- Một trong các bên nộp đơn khởi kiện tại Tòa án

- Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Với những so sánh, đối chiếu nêu trên, có thể thấy rằng phương thức trọng tài đang hạn chế được các nhược điểm mà các phương thức giải quyết tranh chấp khác đang gặp phải. Mặc dù việc giải quyết bằng trọng tài thương mại vẫn còn gặp một số nhược điểm như: thời gian tranh chấp càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao; việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án;…Tuy nhiên, với những ưu điểm như bảo đảm được tính thực thi quyết định trọng tài sau cùng hay bảo đảm việc giữ bí mật trong quá trình giải quyết tranh chấp,… đã khiến cho các bên xảy ra tranh chấp, đặc biệt là các thương nhân, doanh nghiệp lớn đang rất quan tâm đến vấn đề hình ảnh, thương hiệu,… lựa chọn phương thức trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp, ràng buộc quy định lựa chọn trọng tài vào các thỏa thuận giữa hai bên trước khi đặt bút ký kết hợp đồng thương mại.

Giải pháp hạn chế tranh chấp thương mại liên quan đến hợp đồng

Tranh chấp hợp đồng thương mại thường xảy ra nhiều bởi lẽ các bên tham gia ký kết hợp đồng khó thể dự đoán được hết những rủi ro, tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại. Bên cạnh đó, các loại hình hợp đồng thương mại rất đa dạng nên sẽ chịu nhiều sự điều chỉnh khác nhau của các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng với các loại hợp đồng riêng biệt khiến các bên tham gia chưa có sự đầu tư nghiên cứu đầy đủ và đúng các điều chỉnh pháp luật liên quan đến nội dung thỏa thuận tại hợp đồng thương mại. Hơn thế nữa, hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay còn những bất cập nên việc ký kết, thực hiện hợp đồng cũng như giải quyết tranh chấp trở nên phức tạp hơn. Do vậy, dưới đây là một số ý kiến đề xuất giải pháp các bên liên quan có thể tham khảo để giảm thiểu rủi ro, thiệt hại kéo theo cũng như phát sinh tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại như:

- Nên có bộ mẫu hợp đồng thương mại tương ứng với các loại giao dịch mà các bên thường hay sử dụng/ký kết.

- Cần có đội ngũ pháp lý rà soát hợp đồng thương mại trước khi ký kết.

- Nâng cao kỹ năng đàm phán trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải để tránh hao tổn tiền bạc, thời gian, nhân lực khi theo đuổi giải quyết tranh chấp.

- Các bên tham gia ký kết hợp đồng thương mại thường xuyên, đặc biệt là các doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một quy trình ký kết, thực hiện hợp đồng cụ thể trong đó có sự phối hợp của các chuyên gia về dịch vụ, chuyên gia về pháp lý; có sự giám sát, phối hợp với khách hàng của mình để bảo đảm thỏa thuận được thực hiện đúng và đầy đủ.

- Nghiên cứu các phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhằm giảm thiểu những rủi ro, thiệt hại mà mình phải gánh chịu, đồng thời nâng cao uy tín của thương nhân trong lĩnh vực kinh doanh.    

Thạc sĩ, Luật sư NGÔ VIỆT BẮC

HUỲNH THỊ HỒNG NGUYỆT

Văn phòng Luật sư Sài Gòn Tây Nguyên

Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

Lãi suất chậm thanh toán trong tranh chấp hợp đồng xây dựng: Thực tiễn xét xử và hướng giải quyết

Lê Minh Hoàng