/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Liên đoàn Luật sư Việt Nam đóng góp ý kiến về việc hoàn thiện pháp luật: Góp ý các quy định pháp luật về dịch vụ bổ trợ tư pháp, tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp

Liên đoàn Luật sư Việt Nam đóng góp ý kiến về việc hoàn thiện pháp luật: Góp ý các quy định pháp luật về dịch vụ bổ trợ tư pháp, tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp

01/01/0001 00:00 |

(LSO) - Ngày 06/4/2020 Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhận được Công văn số 1202/TCT ngày 01/4/2020 của Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật đề nghị thông tin, phản ánh những vướng mắc, hạn chế, của quy định pháp luật trong một số lĩnh vực gây khó khăn, kìm hãm phát triển sản xuất, kinh doanh, kinh tế - xã hội và đề xuất hướng hoàn thiện.

Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tổng hợp thông tin, phản ánh của các luật sư, các Đoàn Luật sư về những vướng mắc, hạn chế, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn của các quy định pháp luật trong một số lĩnh vực được yêu cầu.

Ngày 28/4/2020, Liên đoàn Luật sư Việt Nam có văn bản số 108/LĐLSVN, về việc thông tin, phản ánh những vướng mắc, hạn chế, của quy định pháp luật trong một số lĩnh vực gây khó khăn, kìm hãm phát triển sản xuất, kinh doanh, kinh tế - xã hội. Văn bản gửi Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật.

Sau đây là góp ý các quy định pháp luật về dịch vụ bổ trợ tư pháp, tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp.

Ảnh minh họa.

I. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ 

LuậtLuật sư năm 2006 đã được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung vào năm 2012. Luật sửađổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư đã có những thay đổi về thời gian đàotạo nghề luật sư (nâng từ 6 tháng lên 12 tháng), quy định về nghĩa vụ tham giabồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với luật sư, nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháplý của luật sư, giao trách nhiệm tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luậtsư cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam, quy định việc thống nhất Điều lệ Liên đoànLuật sư Việt Nam... Những quy định nêu trên của Luật Luật sư đã góp phần nângcao chất lượng của đội ngũ luật sư, góp phần nâng cao hình ảnh của đội ngũ luậtsư trong xã hội, tăng tính tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp luật sư tronggiám sát và hoạt động hành nghề luật sư. 

Tuynhiên, ngoài những quy định tạo thuận lợi cho hoạt động hành nghề của luật sưthì pháp luật về luật sư hiện hành vẫn tồn tại quy định không thống nhất, bấtcập, quy định chung chung chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc quy định chưa phù hợpvới thực tiễn hoạt động hành nghề luật sư đã gây ra khó khăn cho hoạt động hànhnghề luật sư cũng như hoạt động tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sưđối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Cụ thể là: 

1.Về tiêu chuẩn trở thành luật sư và các trường hợp được miễn đào tạo nghề vàmiễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư 

LuậtLuật sư quy định về tiêu chuẩn trở thành luật sư (Điều 10) còn chung chung, mộtsố đối tượng được miễn đào tạo nghề (Điều 13) trong khi đào tạo nghề luật sư vàđào tạo các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viênlà khác nhau; miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề (Điều 16) không phân biệt,loại trừ người đã từng vi phạm pháp luật, bị kỷ luật... dẫn đến có trường hợpvi phạm pháp luật, bị xử lý kỷ luật ở nơi công tác cũ lại chuyển sang làm luậtsư dẫn đến chất lượng luật sư không bảo đảm, mất lòng tin của xã hội đối vớiđội ngũ luật sư. 

Đềnghị: quyđịnh cụ thể hơn về tiêu chuẩn là luật sư (đặc biệt đối với những người đượcmiễn đào tạo, miễn giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư). 

2.Quy định không phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự 2015  

Điều27 Luật Luật sư quy định cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận ngườibào chữa, trong khi đó theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì cơ quan tiến hànhtố tụng không còn cấp giấy chứng nhận người bào chữa mà cấp đăng ký người bàochữa. 

Đềnghị: ràsoát, chỉnh sửa cho thống nhất. 

3.Hoạt động dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư 

LuậtLuật sư, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã quy định “Hành nghề luật sư” làngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Tư vấn pháp luật thuộc phạm vi hànhnghề của luật sư theo quy định của các điều 4, 22, 28 Luật Luật sư. Tuy nhiên,hiện nay có tình trạng coi tư vấn pháp luật như hoạt động hành nghề bình thườngđể cấp đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Nếu các doanhnghiệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp cũng được kinh doanh ngành, nghề tư vấnpháp luật, dịch vụ pháp lý thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, gây ra sự bất bìnhđẳng, cạnh tranh không lành mạnh giữa những người hành nghề luật sư theo LuậtLuật sư với những cá nhân, doanh nghiệp khác không phải đáp ứng các điều kiệnhành nghề như luật sư. 

Đềnghị: Cầnquy định rõ chỉ luật sư và một số đối tượng đáp ứng được các yêu cầu hành nghềluật sư (như trợ giúp viên pháp lý, tư vấn viên pháp luật) mới được thực hiệnhoạt động hành nghề như luật sư, vì đây là một hoạt động chuyên môn đặc thù, đòihỏi trình độ đào tạo cao, có kiến thức và kỹ năng chuyên môn. Đồng thời, bổsung quy định chế tài đối với những người không phải là luật sư nhưng hoạt độnghành nghề tương tự như luật sư. 

4.Về quy định thành viên của Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam 

Điều60, 64 Luật Luật sư quy định “thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư”,“thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam là các Đoàn luật sư và các luật sư.”không quy định tổ chức hành nghề luật sư là thành viên của Đoàn luật sư, Liênđoàn Luật sư Việt Nam, tạo ra sự cắt khúc trong một quan hệ tổng thể là luậtsư, tổ chức hành nghề luật sư, Đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư, gây ra nhữngbất cập, khó khăn trong việc xử lý mối quan hệ giữa tổ chức xã hội-nghề nghiệpluật sư trong việc quản lý theo chế độ tự quản đối với hoạt động của thành viênvà các tổ chức hành nghề luật sư. 

Đề nghị: xem xét bổ sung quy định thành viên của Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam có thể là các tổ chức hành nghề luật sư (nếu tự nguyện tham gia). 

5.Về trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư 

Điều 8 khoản 2 Điểm b Luật kinh doanh Bảo hiểm (được sửa đổi, bổ sung 2010) quy định: “Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật”. Điều 40 khoản 6 Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định Tổ chức hành nghề luật sư phải mua Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của tổ chức mình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. 

Việcquy định không đầy đủ, thiếu thống nhất về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp dẫnđến tổ chức hành nghề luật sư, luật sư không mặn mà trong việc mua bảo hiểmtrách nhiệm nghề nghiệp. Bởi lẽ, tư vấn pháp luật chỉ thuộc một lĩnh vực hànhnghề của luật sư và còn rất ít rủi ro trong hoạt động nghề nghiệp luật sư.

Đềnghị: cânnhắc quy định cụ thể hơn về trách nhiệm mua bảo hiểm nghề ngiệp của luậtsư. 

6.Vướng mắc về một số quy định liên quan đến hoạt động hành nghề của luậtsư 

Thứ nhất, Khoản 2 và khoản 4 Điều 22 Luật Luật sư quy định về phạm vi hành nghề luật sư, theo đó luật sư được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính; việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật và đại diện ngoài tố tụng cho khách hang để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật. 

Tuynhiên, Luật chưa quy định về thủ tục đại diện của luật sư khi thực hiện côngviệc đại diện trong và ngoài tố tụng, vì vậy, khi làm đại diện luật sư phảithực hiện theo thủ tục ủy quyền của pháp luật dân sự dẫn đến tình trạng khitham gia giải quyết các vụ việc, người nhận ủy quyền là luật sư không được cáccơ quan có thẩm quyền thừa nhận tư cách đại diện theo quy định của Luật Luật sư(có thể bị “tước” tư cách là luật sư) vì cho rằng Bộ luật Dân sự không có quyđịnh về đại diện của luật sư và chỉ coi đó là cá nhân thông thường nhận ủyquyền theo quy định của Bộ luật Dân sự. Điều này làm mất đi vị thế của luật sưkhi thực hiện công việc đại diện. 

Đềxuất: Cần sửa đổi, bổ sungchế định về hoạt động đại diện của luật sư, quy định về thủ tục thực hiện côngviệc đại diện của luật sư trong Luật Luật sư, không theo quy định của Bộ luậtDân sự để đảm bảo luật sư thực hiện đúng và hiệu quả chức năng xã hội theo quyđịnh của Luật Luật sư. 

Thứ hai, Khoản 1 Điều 30 Luật Luật sư quy định về hoạt động dịch vụ pháp lý khác của luật sư, trong đó có dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch... Tuy nhiên, quy định nêu trên không được cụ thể hóa dẫn đến hạn chế hoạt động cung cấp dịch vụ, thậm chí quy định này không đi vào thực tiễn. 

Đềxuất: cần có văn bản hướng dẫn về quy định của khoản 1 Điều 30 làm căn cứ đểluật sư thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ, đảm bảo áp dụng pháp luậtthống nhất, minh bạch. 

7.Về xác định tư cách bị hại và thời điểm luật sư của bị hại được tham gia tốtụng 

Khitham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hạiở giai đoạn xác minh tin báo, luật sư gặp khó khăn do không được cơ quan điềutra chấp thuận tham gia tố tụng, dẫn đến quyền lợi của khách hàng không đượcbảo vệ kịp thời và đầy đủ do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định thờiđiểm người bào chữa tham gia tố tụng chứ không quy định về thời điểm người bảovệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại tham gia tố tụng. 

Theokhoản 1 Điều 7 Thông tư số 46/2019/TT-BCA thì: “1. Thời điểm người bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởitố tham gia tố tụng kể từ khi có Quyết định phân công giải quyết tố giác, tinbáo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và có căn cứ xác định tư cách tham gia tốtụng của bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố”. Tuy nhiên,không có quy định rõ ràng về việc khi nào, như thế nào thì được coi là có căncứ xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại. 

Đềxuất: có hướng dẫn làm rõ:thế nào là “có căn cứ xác định tư cách tham gia tố tụng của bị hại”; “Tư cáchtham gia tố tụng của bị hại được xác định kể từ khi có thông báo tiếp nhậnnguồn tin tố giác hay từ khi có quyết định khởi tố vụ án?” 

8.Vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật tại Điều 260 Bộ luật Hình sự 

Điều260 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về “Tội vi phạmquy định về tham gia giao thông đường bộ”. Trong đó, khoản 1 của Điều này nêucác hậu quả vật chất của hành vi phạm tội như: gây thiệt hại cho tính mạng ngườikhác, gây thương tích hoặc gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác với một tỷlệ nhất định hoặc gây thiệt hại về tài sản ở mức độ nhất định. 

Khoản2 Điều 260 đưa ra các mức thiệt hại cao hơn mức thiệt hại nêu tại khoản 1, đồngthời liệt kê thêm một số trường hợp người tham gia giao thông đường bộ mà viphạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác như:không có giấy phép lái xe; không chấp hành hiệu lệnh; sử dụng rượu, bia; bỏchạy không cấp cứu người bị nạn... 

Vấnđề là khoản 1, khoản 2 Điều 260 là hai khoản độc lập, không có cụm từ nào dẫnchiếu các trường hợp thuộc khoản 1 là tình tiết định tội, các tình tiết  quy địnhtại khoản 2 là định khung tăng nặng. Do đó, hiện nay việc hiểu và vận dụng Điềuluật này còn có ý kiến khác nhau. 

Loạiý kiến thứ 1 cho rằng: nội dung định tội của tội này là “Người nào tham giagiao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gâythiệt hại cho người khác”; phần định khung được quy định riêng tại điểm a,b, c, d khoản 1 và các điểm a, b, c, d, e, g khoản 2. 

Loạiý kiến thứ 2 cho rằng: Khoản 1 quy định nội dung định tội, khi hành vi thỏa mãnnội dung định tội tại khoản 1 thì mới xem xét đến vấn đề tăng nặng trách nhiệmhình sự tại khoản 2. 

Vậyloại ý kiến nào là đúng? 

Đề xuất: đề nghị có hướng dẫn chi tiết về Điều 260 Bộ luật Hình sự. Trường hợp khoản 1 Điều 260 là nội dung định tội thì phải xem xét điều chỉnh mức độ tổn thất sức khoẻ, tài sản tại Điều luật này thấp hơn quy định hiện nay, có như vậy mới đủ để răn đe những người coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác. 

II.CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG 

Khoản3 Điều 22 Luật Công chứng 2014 quy định: “Tên gọi của Văn phòng công chứngphải bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phònghoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng docác công chứng viên hợp danh thỏa thuận...”. 

Khoản2 Điều 79 Luật Công chứng 2014 quy định: “... Trường hợp thay đổi một trongcác nội dung quy định tại khoản 2 Điều 24 của Luật này (Khoản 2 Điều 24 quyđịnh: Văn phòng công chứng thay đổi tên gọi, trụ sở hoặc Trưởng Văn phòng côngchứng) thì phải thay đổi tên gọi của Văn phòng công chứng”. 

Theo chúng tôi, các quy định nói trên của Luật Công chứng năm 2014 là không dựa trên căn cứ khoa học và không phù hợp với thực tiễn bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, Văn phòng công chứng là một tổ chức, một pháp nhân. “Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. (Khoản 5 Điều 2 Luật Công chứng 2014). Văn phòng công chứng đã là một tổ chức thì ngoài việc tuân thủ các quy định về chuyên môn nghiệp vụ còn phải thực hiện những quy định khác của pháp luật và xã hội như tổ chức quản lý, xây dựng thương hiệu, kê khai, nộp thuế…như một doanh nghiệp. Khi là một tổ chức thì ắt hẳn các Công chứng viên hợp danh đều mong muốn xây dựng tổ chức của mình vững mạnh, ổn định, có thương hiệu, phát triển lâu dài. Do đó tên gọi của Văn phòng công chứng phải mang tính xã hội, tính thẩm mỹ, đặc trưng của nghề nghiệp thì mới mang lại giá trị thương hiệu và niềm tin cho khách hàng. Việc quy định tên gọi của Văn phòng công chứng là tên của Công chứng viên hợp danh sẽ không đáp ứng được mong muốn đó.

Thứhai, Văn phòng công chứng là mô hình Công ty hợp danh, các thành viên hợp danhđều có địa vị pháp lý ngang nhau, thậm chí việc góp vốn cũng bằng nhau nên việcthỏa thuận để lấy tên người nào đặt tên cho Văn phòng công chứng là điều “khóxử” của các Công chứng viên, quy định này vô hình chung gây nên những mẫuthuẫn, bức xúc trong nội bộ trong Văn phòng công chứng. 

Thứba, việc hành nghề của Công chứng viên không phải là bất biến. Có rất nhiều lýdo khác nhau mà Công chứng viên trưởng văn phòng hoặc Công chứng viên hợp danhdùng tên mình để đặt tên cho Văn phòng công chứng chuyển sang hoạt động ở Vănphòng công chứng khác hoặc không hành nghề công chứng nữa (chết; mất năng lựchành vi; bị tước quyền hành nghề; già yếu; chuyển công việc khác...). Tương tựnhư vậy, đối với trụ sở Văn phòng công chứng, hầu hết các Văn phòng công chứngkhi thành lập và hoạt động đều phải thuê trụ sở nên việc thay đổi trụ sở làđiều thường xuyên xảy ra do nhiều lý do khách quan (nhà thuê bị giải tỏa, chủnhà tăng giá bất hợp lý...). Luật Công chứng bắt buộc khi phát sinh những sựkiện này thì phải đổi tên Văn phòng công chứng là điều không cần thiết. Việcđổi tên (dẫn đến thay đổi con dấu) của một Văn phòng công chứng liên tục sẽ dẫnđến những hệ lụy sau: 

-Đối với tổ chức nội bộ Văn phòng đó, khi đổi tên Văn phòng phải thay đổi condấu, biển hiệu, biểu mẫu...gây ra sự xáo trộn, mất ổn định, tốn kém tiền của.Bên cạnh đó là sự mất đi thương hiệu, giá trị của Văn phòng mà họ đã dày côngxây dựng. 

-Đối với cơ quan quản lý Nhà nước (Tư pháp, Công an, Thuế, Bảo hiểm xã hội,Thống kê...) sẽ phải thực hiện các nghiệp vụ đăng ký, kê khai, sửa đổi... khiVăn phòng công chứng đổi tên... liên tục. Điều này gây nên sự tổn hại lớn đốivới nhà nước và xã hội. 

-Đối với người dân, đây là chủ thể quan trọng nhất và phải chịu hậu quả lớn nhấttừ việc Văn phòng công chứng đổi tên nhiều lần. Giao dịch dân sự của người dâncó tính biến động rất lớn, trên thực tế có những việc công chứng, người dânphải thực hiện rất nhiều lần mà bắt buộc phải thực hiện ở Văn phòng công chứngmà họ đã thực hiện trước đó như hủy bỏ, sửa đổi hợp đồng, giao dịch; lưu giữ dichúc...Những rắc rối sẽ xảy ra nếu người dân và kể cả cơ quan nhà nước khi thựchiện thủ tục hành chính hoặc giải quyết tranh chấp không biết Văn phòng côngchứng đã bị đổi tên. (Ví dụ: Người dân khi có việc phát sinh phải đi tìm Vănphòng công chứng Nguyễn Văn A nhưng không tìm thấy nữa (đã đổi tên thành  NguyễnVăn B, thậm chí đổi đến X,Y,Z)...; Cơ quan hành chính, cơ quan tố tụng khi tiếpnhận hồ sơ, chứng cứ sẽ gặp những trường hợp cùng một đối tượng giao dịch, thựchiện tại một Văn phòng công chứng nhưng lúc thì tên này, lúc thì tên khác buộchọ phải yêu cầu đương sự xác minh, truy nguyên...). Gây ra sự bức xúc cho ngườidân, gây nên sự xáo trộn không đáng có cho xã hội. 

Từ những bất cập và phân tích nêu trên, đề nghị có những giải pháp kịp thời để sửa đổi, khắc phục, hạn chế những tiêu cực và thiệt hại xảy ra cho xã hội khi phải thực hiện những quy định bất hợp lý nói trên của Luật Công chứng. 

LSO
(Nguồn: Văn bản góp ý về rà soát văn bản quy phạm pháp luật, Liên đoàn Luật sư Việt Nam)
/gop-y-cac-quy-dinh-ve-lao-dong-viec-lam-an-sinh-xa-hoi.html
/cap-huyen-duoc-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat.html