/ Tích hợp văn bản mới
/ Lần đầu tiên quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử

Lần đầu tiên quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử

01/01/0001 00:00 |

(LSO) - Từ ngày 1/7/2020 Luật Quản lý thuế 2019 đã chính thức có hiệu lực. Trước đó vào ngày 13/6/2019 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, Luật Quản lý thuế đã được Quốc hội thông qua, với nhiều nội dung mới đáng chú ý. Đặc biệt, Luật này lần đầu tiên quy định về quản lý thuế với hoạt động thương mại điện tử.

Hiện nay, hoạt động kinh doanh thương mại điện tử phát triển ngày càng rộng rãi thì việc xây dựng, ban hành các quy định về quản lý thuế trong lĩnh vực này là cần thiết.

Lần đầu quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử

Hiện nay, hoạt động kinh doanh thương mại điện tử phát triển ngày càng rộng rãi thì việc xây dựng, ban hành các quy định về quản lý thuế trong lĩnh vực này là cần thiết. Trước đây, Điều 30 Luật Quản lý thuế 2006 về "Nguyên tắc khai thuế và tính thuế" chưa có quy định nào nói rõ về hoạt động kinh doanh thương mại điện tử.

Do đó, để bổ sung đầy đủ và chi tiết hơn, Luật Quản lý thuế 2019 đã bổ sung thêm Khoản 4 Điều 42 về việc kê khai thuế theo quy định: Đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Đây chỉ là một trong những nội dung mang tính chất định hướng nhưng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Trong thời gian tới, khi ban hành các văn bản hướng dẫn sẽ quy định cụ thể về nội dung quản lý với hoạt động thương mại điện tử.

Kéo dài thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế TNCN theo Luật quản lý thuế mới

Trước đó, Điểm c Khoản 2 Điều 32 Luật Quản lý thuế 2006 quy định, thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch, hoặc năm tài chính đối với hồ sơ quyết toán năm.

Tuy nhiên, theo Điểm b Khoản 2 Điều 44 Luật Quản lý thuế 2019 thì lại cho phép cá nhân được nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 4 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch đối với hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân của cá nhân trực tiếp quyết toán thuế.

Vậy là kéo dài thêm 01 tháng so với Luật Quản lý thuế 2006.

Mở rộng "Quyền của người nộp thuế"

Còn đối với "Quyền của người nộp thuế", bên cạnh các quyền được quy định trong Điều 6 Luật Quản lý thuế 2006, Điều 16 Luật Quản lý thuế 2019 đã bổ sung thêm nhiều quyền nhằm đảm bảo quyền lợi của người nộp thuế như sau:

Được nhận văn bản liên quan đến nghĩa vụ thuế của các cơ quan chức năng khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.

Được biết thời hạn giải quyết hoàn thuế, số tiền thuế không được hoàn và căn cứ pháp lý đối với số tiền thuế không được hoàn.

Được tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử mà mình đã gửi đến cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và pháp luật về giao dịch điện tử.

Được sử dụng chứng từ điện tử trong giao dịch với cơ quan quản lý thuế và cơ quan, tổ chức có liên quan.

Không bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế, không tính tiền chậm nộp đối với trường hợp do người nộp thuế thực hiện theo văn bản hướng dẫn và quyết định xử lý của cơ quan thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến nội dung xác định nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.

Bổ sung chức năng cung cấp dịch vụ kế toán cho đại lý thuế

So với Điều 20 của Luật Quản lý thuế 2006, Điều 104 Luật Quản lý thuế 2019 đã quy định rõ ràng hơn về các "Cung cấp dịch vụ thủ tục thuế".

Trước đó, trong Luật cũ, khoản 1 Điều 20 về "Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế" đã quy định, các tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có điều kiện được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp, thực hiện các thủ tục về thuế theo thỏa thuận với người nộp thuế.

Còn trong bộ Luật Quản lý thuế 2019, đã bổ sung thêm chức năng cung cấp dịch vụ kế toán cho doanh nghiệp siêu nhỏ cho đại lý thuế theo điểm c khoản 1 Điều 104 quy định. Đây là quy định cho phép các đại lý thuế thêm chức năng cung cấp dịch vụ kế toán ngoài việc cung cấp dịch vụ đại lý thuế đang thực hiện.

Chức năng này phù hợp với Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp những doanh nghiệp siêu nhỏ tiết kiệm chi phí khi thay vì phải thuê hai đơn vị thực hiện 02 dịch vụ (tư vấn thuế và kế toán) nay chỉ cần một đơn vị thực hiện hai nhiệm vụ trên.

Siết chặt quản lý hoạt động chuyển giá

Hiện nay, hành vi trốn thuế thông qua chuyển giá ngày càng phổ biến. Để ngăn chặn tình trạng trên, Luật Quản lý thuế 2019 đã nêu chi tiết, rõ ràng hơn so với Luật Quản lý thuế 2006.

Theo đó, nghiêm cấm hành vi: Thông đồng, móc nối, bao che giữa người nộp thuế và công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế để chuyển giá, trốn thuế.

Để quản lý chặt chẽ hơn về hành vi trốn thuế, Luật mới về quản lý thuế đã bổ sung thêm khoản 5 Điều 42 Luật Quản lý thuế 2019 quy định về "Nguyên tắc kê khai, xác định giá tính thuế" đối với giao dịch liên kết như sau:

Kê khai, xác định giá giao dịch liên kết theo nguyên tắc phân tích, so sánh với các giao dịch độc lập và nguyên tắc bản chất hoạt động, giao dịch quyết định nghĩa vụ thuế để xác định nghĩa vụ thuế phải nộp như trong điều kiện giao dịch giữa các bên độc lập;

Giá giao dịch liên kết được điều chỉnh theo giao dịch độc lập để kê khai, xác định số tiền thuế phải nộp theo nguyên tắc không làm giảm thu nhập chịu thuế;

Tuy nhiên, người nộp thuế có quy mô nhỏ, rủi ro về thuế thấp được miễn thực hiện quy định kê khai, xác định giá tính thuế theo nội dung trên và được áp dụng cơ chế đơn giản hóa trong kê khai, xác định giá giao dịch liên kết.

Thêm trường hợp được gia hạn nộp thuế

Được biết, người nộp thuế phải thực hiện đăng ký thuế và được cơ quan thuế cấp mã số thuế trước khi bắt đầu hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc có phát sinh nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.

So với Điều 49 Luật Quản lý thuế 2006 về "Gia hạn nộp thuế", Điều 62 Luật Quản lý thuế 2019 quy định, thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế được rút ngắn chỉ còn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký thuế (hiện hành là 10 ngày làm việc).

Trường hợp cấp lại do bị mất, rách, nát, cháy thì trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ (hiện hành là 5 ngày làm việc).

Ngược lại, thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân (TNCN) có kỳ tính thuế theo năm được kéo dài hơn, tạo thuận lợi cho người nộp thuế. Cụ thể, đối với hồ sơ quyết toán thuế TNCN của cá nhân trực tiếp quyết toán thuế thì thời hạn chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 4 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch.

Luật Quản lý thuế 2019 cũng đã bổ sung nhiều trường hợp được gia hạn nộp thuế, bao gồm bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp trường hợp bất khả kháng; bảo đảm tốt hơn quyền lợi cho người nộp thuế trong trường hợp bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do thảm họa, dịch bệnh.

Chính phủ quyết định việc gia hạn nộp thuế cho các đối tượng, ngành, nghề kinh doanh gặp khó khăn đặc biệt trong từng thời kỳ nhất định. Việc gia hạn nộp thuế không dẫn đến điều chỉnh dự toán thu ngân sách nhà nước đã được Quốc hội quyết định.

LÂM HOÀNG

/quy-dinh-moi-ve-kiem-soat-xuat-nhap-canh-doi-voi-nguoi-di-tren-phuong-tien-quoc-phong-an-ninh.html