/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Một số vấn đề về phòng vệ chính đáng và nâng cao năng lực, hiệu quả của việc áp dụng chế định này trong thực tiễn

Một số vấn đề về phòng vệ chính đáng và nâng cao năng lực, hiệu quả của việc áp dụng chế định này trong thực tiễn

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Để tránh những trường hợp lợi dụng việc phòng vệ chính đáng nhằm mục đích thực hiện hành vi phạm tội, Bộ luật Hình sự quy định chặt chẽ các điều kiện của chế định phòng vệ chính đáng. Về cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng: hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể; hành vi xâm phạm phải là hành vi đang diễn ra, xâm hại đến các lợi ích cần bảo vệ.

Ảnh minh họa.

1. Đặt vấn đề

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và người thực hiện hành vi phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS). Tuy nhiên, luật hình sự cũng quy định có một số hành vi mặc dù có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm nhưng lại không phải chịu trách nhiệm hình sự trong đó có phòng vệ chính đáng. Phòng vệ chính đáng được Nhà nước ghi nhận dưới dạng một quyền cho phép người bị tấn công thực hiện hành vi chống trả lại và gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công.

Ở đây đặt ra một câu hỏi là: Phải chăng, pháp luật cho phép người dân có quyền tự xử lý các mối quan hệ mà không cần đến các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án? Song, vấn đề không phải là như vậy. Việc cá nhân tự ý trả thù, tự ý trừng trị kẻ phạm tội sẽ bị pháp luật cấm, nhưng cũng có những trường hợp pháp luật cho phép cá nhân chống trả một cách cần thiết người có hành vi vi phạm để bảo vệ các lợi ích của mình, của người khác, hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, hành vi phòng vệ này là hợp pháp và được pháp luật khuyến khích vì nó phù hợp với xã hội, hỗ trợ cho Nhà nước trong việc duy trì, lập lại trật tự xã hội. Việc ghi nhận chế định phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự (BLHS) còn có một ý nghĩa rất quan trọng khác, đó là nhằm khuyến khích mọi công dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm, qua đó nâng cao tính pháp quyền và khẳng định vai trò điều hành của Nhà nước trong quản lý xã hội.

2. Quy định của BLHS 2015 về Phòng vệ chính đáng

BLHS số 100/2015/QH13 (BLHS 2015) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017 quy định về chế định phòng vệ chính đáng tại Điều 22 như sau: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, của tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.”

Nếu như tại BLHS 1999 chế định phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 15 Chương III (TỘI PHẠM) thì tại BLHS 2015 Phòng vệ chính đáng đã được quy định tại Chương IV “NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ” bao gồm: Sự kiện bất ngờ (Điều 20), Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21), Tình thế cấp thiết (Điều 23), Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24) và Rủi ro trong khi nghiên cứu thử nghiệm áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25) điều này đã phản ánh đúng bản chất của chế định này trong Luật Hình sự. Xét về nội dung của điều luật, về cơ bản cũng không có gì thay đổi so với quy định tại khoản 1 Điều 15 của BLHS 1999, về hình thức câu từ có sự thay đổi, theo quy định của BLHS 2015 quy định phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người kháchoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức (trước đây BLHS 1999 quy định là vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác). 

3. Các điều kiện của Phòng vệ chính đáng

Xét về bản chất, hành vi phòng vệ chính đáng là hành động nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật, hạn chế những thiệt hại gây ra, lập lại sự quân bình xã hội. Tuy nhiên, phòng vệ chính đáng không có nghĩa là tự ý xử lý trong mọi trường hợp mà cũng có những giới hạn nhất định, một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các điều kiện chứng minh sự phòng vệ là cần thiết và phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.

Để tránh những trường hợp lợi dụng việc phòng vệ chính đáng nhằm mục đích thực hiện hành vi phạm tội, luật Hình sự quy định chặt chẽ các điều kiện của chế định phòng vệ chính đáng. Về cơ sở phát sinh quyền Phòng vệ chính đáng: hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể; hành vi xâm phạm phải là hành vi đang diễn ra, xâm hại đến các lợi ích cần bảo vệ. Xét về nội dung Phòng vệ chính đáng có các điều kiện sau:

3.1. Hành vi Phòng vệ chính đáng nhằm bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức

Đây là điều kiện rất quan trọng, đòi hỏi người phòng vệ phải có mục đích nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chứctrước sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại của hành vi xâm hại. Hành vi của một người gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại nhưng không phải vì mục đích nhằm bảo vệ những lợi ích hợp pháp mà vì những mục đích khác (trả thù) thì trong trường hợp này, hành vi gây thiệt hại không được coi là phòng vệ chính đáng.

Ví dụ: Thấy A đang dùng tay đấm liên tiếp vào mặt B làm B bị ngất A vẫn còn xông vào đánh tiếp, do vậy C đã xông vào dùng tay đánh A và kết quả là gây thương tích cho A làm A bị bầm tím hai mắt và mặt. Trong trường hợp này, nếu C xông vào đánh A nhằm giải thoát cho B và hành vi của C là cần thiết nhằm đẩy lùi sự tấn công của A thì hành vi gây thương tích của C được coi là phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, cũng cùng một hành vi như trên, nếu C xông vào đánh A nhưng không phải là nhằm giải thoát cho B mà là nhằm trả thù A vì trước đó giữa A và C có mâu thuẫn thì trong trường hợp này, hành vi gây thương tích của C không được coi là phòng vệ chính đáng. 

3.2. Hành vi phòng vệ phải nhằm vào chính người tấn công, người đang có hành vi nguy hiểm cho các quan hệ xã hội được bảo vệ

Luật Hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi chống trả nhằm vào người đang có hành vi tấn công để ngăn chặn hành vi này mới xem là hợp pháp. Thực tiễn có rất nhiều hành vi xâm hại đến người thân của người đang có hành vi tấn công để buộc người này chấm dứt việc thực hiện hành vi trái pháp luật, pháp luật không xem những hành vi như vậy là phòng vệ mà họ phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: A và B là hàng xóm, do mâu thuẫn tranh chấp đất đai. Một hôm A uống rượu rồi sang nhà B gây chuyện, hai bên đánh nhau, B đánh không lại nhưng biết bên nhà A có con 10 tuổi nên chạy sang đánh con của A gây thương tích 25%. Hành vi của B không xem là phòng vệ chính đáng mà phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ đối với người có hành vi xâm hại mà gây thiệt hại khác thì cũng không là phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A cầm dao rượt chém B, B không đánh trả mà chạy sang nhà A dùng cây đập vỡ ti vi.

Sự chống trả của người phòng vệ phải nhằm vào chính kẻ tấn công, vào chính người đang gây nguy hiểm vì có như vậy mới đạt được mục đích của phòng vệ chính đáng là ngăn chặn một cách tích cực sự tấn công, hạn chế sự thiệt hại do tấn công đe dọa gây ra. Nếu một người, để tránh một thiệt hại gây ra cho mình bằng cách gây thiệt hại cho người khác thì không thể coi là phòng vệ chính đáng được vì trong phòng vệ chính đáng sự thiệt hại phải là gây ra cho người có hành vi xâm hại để ngăn chặn hành vi xâm hại đó. Ví dụ: A cầm dao để đâm B, đáng lẽ B phải tìm cách để ngăn chặn hành vi nguy hiểm của A như là chạy hoặc chống trả lại hành vi đó thì B lại đẩy người khác vào để người đó phải chịu nhát dao đâm của A để thoát nạn. Trong trường hợp này, hành vi của B không được coi là phòng vệ chính đáng. Tóm lại, một hành vi gây thiệt hại nhằm ngăn chặn một hành vi xâm hại của người khác chỉ được coi là phòng vệ chính đáng nếu sự gây thiệt hại đó là gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm hại để ngăn chặn hành vi nguy hiểm đó.

3.3. Hành vi phòng vệ phải “cần thiết” 

“Cần thiết” không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại đe doạ gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ. Nó cũng không có nghĩa là bên xâm hại như thế nào thì người phòng vệ phải gây thiệt hại như thế đấy. Sự chống trả trong phòng vệ chính đáng là nhằm vào hành vi tấn công, nhằm chấm dứt hành vi này để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức. Việc xem xét một hành vi chống trả là cần thiết phải căn cứ vào tính chất của các lợi ích bị xâm phạm, tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ. Lợi ích bị xâm phạm cần được bảo vệ càng quan trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải mạnh mẽ bấy nhiêu.

Ví dụ: Một cảnh vệ nổ súng bắn chết một người đã đột nhập vào khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt theo một chế độ đặc biệt, thì hành vi của người bảo vệ được coi là cần thiết và là phòng vệ chính đáng. Nhưng cũng hành vi bắn chết người này lại trong trường hợp một học sinh vào trường hái trộm nhãn và bị bảo vệ bắn chết thì lại không được coi là cần thiết. Vì vậy, khi xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể trong mối tương quan giữa lợi ích được bảo vệ và hành vi chống trả.

4. Một số vấn đề về Phòng vệ chính đáng 

4.1. Về chế định phòng vệ trước (Phòng vệ từ xa)

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước (phòng vệ từ xa), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như: đấu dòng điện vào cánh cửa để phòng trộm, dùng bẫy để đề phòng người gian...Nếu việc phòng vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm thông thường (Giết người hoặc Cố ý gây thương tích). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng người phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giảm nhẹ đáng kể. 

Ví dụ: Gia đình Trần Văn N thường xuyên bị mất trộm gà, N đã nhiều đêm thức trắng để phục bắt người trộm nhưng không được, N bèn lấy một đoạn giây thép buộc vào cánh cửa chồng gà và cho dòng điện 220 Vol chạy qua. Để bảo đảm an toàn cho những người trong gia đình mình, N dặn mọi người phải cẩn thận trước khi đi ngủ mới được đấu điện vào và sáng thức dậy phải rút điện ra. Đến đêm thứ 9 thì Bùi Văn T vào trộm gà và bị điện giật chết, trên tay T còn cầm một bao tải trong đựng 4 con gà. Mặc dù N bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Giết người theo khoản 2 nhưng Toà án chỉ phạt N 3 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) nhưng vẫn được nhân dân đồng tình, thậm chí còn có ý kiến cho rằng không nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N vì người bị chết là “đáng đời”, ai bảo đi ăn trộm.

Ở đây có vấn đề mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật với hành vi nguy hiểm cho xã hội, cũng giống như trường hợp đánh chết người trộm chó (cẩu tặc) khi bị bắt, vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy, chúng tôi vẫn thấy rằng các nhà làm luật cũng nên tính cả đến các yếu tố truyền thống, phong tục, tâm lý của người Việt Nam trong trường hợp “Phòng vệ trước”. Pháp luật của một số nước kể cả các nước phát triển vẫn quy định trong một số trường hợp phòng vệ trước không phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu ở nước ta không thừa nhận hành vi phòng vệ trước thì cũng nên quy định trong một số trường hợp tội phạm do phòng vệ trước được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách đáng kể. 

4.2. Vấn đề áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS

Điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 có quy định Phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hiện nay có ý kiến cho rằng việc quy định tình tiết phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS là không cần thiết bởi vì người phạm tội đã bị kết án về một trong các tội liên quan đến hành vi phòng vệ được quy định trong BLHS là tình tiết định tội, định khung thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51. 

Theo chúng tôi thì quy định phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một tình tiết giảm nhẹ vẫn cần thiết, bởi vì thực tiễn xét xử có một số vụ án Giết người hoặc Cố ý gây thương tích thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, nhưng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi chống trả với hành vi phòng vệ chưa thuộc trường hợp quy định tại Điều 126 (Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội) hoặc Điều 136 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội) mà thuộc trường hợp tội phạm Giết người quy định tại Điều 123 hoặc Cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 BLHS thì người phạm tội vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là phải xác định trường hợp nào là dấu hiệu định tội quy định tại Điều 126 và Điều 136 BLHS, còn trường hợp nào chỉ là tình tiết giảm nhẹ định tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS? Đây là vấn đề rất khó xác định cần phải có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.

4.3. Vấn đề phương tiện và phương pháp của người phòng vệ và người xâm hại khi thực hiện quyền phòng vệ

 Trong các văn bản hướng dẫn về hành vi của người phòng vệ trước đây có nêu "người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng, quá đáng". Hành vi phòng vệ thể hiện một quyền của con người đó là quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe được pháp luật bảo vệ và khuyến khích thực hiện. Do đó, khi có hành vi xâm hại thì người phòng vệ có quyền bảo vệ mình, do người phòng vệ không có sự đề phòng trước nên về phương tiện, phương pháp sử dụng để đối phó của người phòng vệ đối với người xâm hại thông thường không bằng sự nguy hiểm do phương tiện, phương pháp do người xâm hại gây ra cho người phòng vệ nhưng trong nhiều trường hợp cũng có thể hơn, vì thế không bắt buộc là phải ngang bằng nhau. 

4.4. Vấn đề xác định thế nào là Phòng vệ chính đáng và Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Trong thực tiễn xét xử, các trường hợp có nhiều khó khăn trong việc phân biệt, đánh giá giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong các trường hợp:

- Bên xâm hại có hành vi xâm hại nghiêm trọng đến tài sản, còn bên phòng vệ có hành vi giết người, làm chết người hoặc gây thương tích nặng cho người có hành vi xâm hại: Đối với trường hợp mà bên xâm hại có hành vi xâm hại đến tài sản (trộm cắp thông thường) thì hành vi của người phòng vệ đánh bị thương kẻ tấn công được coi là tương xứng và cần thiết , nếu bắt gặp tên trộm đang vào trong nhà để ăn trộm thì việc đánh bị thương tên trộm là việc mà mọi người cho là bình thường. Tuy nhiên, nếu người phòng vệ lại có hành vi giết chết hoặc gây thương tích nặng cho kẻ xâm hại thì trong thực tiễn xét xử, hành vi đó bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Trừ một số trường hợp mà hành vi trộm cắp mang tính chất nguy hiểm như hành vi lẻn vào lấy cắp ở một nơi được bảo vệ đặc biệt). Trong thực tiễn xét xử, đối với các vụ án xâm phạm đến tài sản của nhà nước thì tính chất phòng vệ chính đáng thường được chấp nhận dễ dàng hơn so với trường hợp tài sản bị xâm hại là tài sản riêng của công dân.

- Bên xâm hại có hành vi xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm còn bên phòng vệ có hành vi giết người, làm chết người hoặc gây thương tích nặng cho người có hành vi xâm hại: Đối với những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm thì việc xem xét, đánh giá hành vi phòng vệ chính đáng hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thông thường được vận dụng như sau:

+ Đối với những hành vi xâm phạm đến nhân phẩm của người phụ nữ (chẳng hạn như hiếp dâm) thì mặc dù người phụ nữ có hành vi chống trả và gây ra cái chết hoặc gây ra thương tích nặng cho kẻ tấn công thì thực tiễn xét xử vẫn dễ chấp nhận việc chống trả là cần thiết và là phòng vệ chính đáng. 

+ Nếu người tấn công có hành vi xâm hại và cố ý gây thương tích thậm chí có thể đe dọa không những cho sức khỏe mà còn đe dọa tính mạng của người khác, còn hành vi phòng vệ là gây chết người hoặc gây thương tích nặng cho kẻ tấn công,  thì cần phải cân nhắc, so sánh phương tiện, phương pháp mà các bên đã sử dụng, tương quan lực lượng và khả năng của các bên, hoàn cảnh thực tế khi xảy ra sự việc. Trong trường hợp mà hành vi tấn công xâm hại đến sức khỏe, tính mạng thì khi phân biệt giữa cần thiết và không cần thiết, cần phải chú ý đến tình trạng tinh thần của người phòng vệ bị tấn công đột ngột kích động, người phòng vệ không phải bao giờ cũng có khả năng lường được một cách chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại và lựa chọn phương cách phòng vệ cho thật tương xứng. Tuy nhiên, trong thực tế vấn đề này là hết sức phức tạp đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải nắm vững lý luận về phòng vệ chính đáng, phải thu thập và đánh giá đầy đủ mọi chứng cứ có liên quan đến vụ án để từ đó mới có thể đưa ra những quyết định chính xác.

Vấn đề xác định thế nào là phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại Điều 22 BLHS thực tế rất khó khăn, trên thực tiễn xét xử vẫn có những nhận thức rất khác nhau. Trên thực tế hiện nay, không chỉ có hành vi xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng mà đang nổi lên việc xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản sau đó đi liền với sự xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ đối với người bị xâm phạm. Ví dụ như nạn “cẩu tặc”, cướp giật, trộm cắp khi bị phát hiện các đối tượng này thường có những hành động nguy hiểm như đánh, chém, bắn bằng súng tự tạo nhằm thoát thân, lấy cho bằng được tài sản. Chính vì lẽ đó, chế định phòng vệ chính đáng cần được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng trong việc áp dụng vào thực tiễn.

4.5. Vấn đề về Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với các trường hợp Phạm tội trong khi thi hành công vụ

Một trong những vấn đề mà thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng vệ chính đáng đặt ra, đó là việc phân biệt giữa phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với các trường hợp phạm tội trong khi thi hành công vụ. Trong thực tế, những trường hợp gây án mạng hoặc gây thương tích nặng trong khi thi hành nhiệm vụ xảy ra khá nhiều, chủ yếu là những trường hợp gây chết người hoặc gây thương tích nằm ngoài sự mong muốn của những người này, tuy nhiên cũng có một số trường hợp có thái độ cố ý trực tiếp, những sự việc xảy ra trong khi họ thi hành lệnh bắt người, dẫn giải tội phạm… Tính nguy hiểm của hành vi cũng ở những mức độ khác nhau: Có khi là hết sức nguy hiểm (như xả súng bắn hàng loạt vào một nhóm tội phạm ma tuý bị truy nã đang chạy trốn) nhưng có những trường hợp ở mức độ bình thường như là bắn cảnh cáo về phía người vi phạm nhưng không may đã làm chết người hoặc gây thương tích. Có trường hợp người thực thi nhiệm vụ nổ súng để bảo vệ mình hoặc bảo vệ người khác trước hành vi tấn công của người phạm tội, một số trường hợp khác người thực thi nhiệm vụ nổ súng vào người đang phạm pháp (ví dụ: đang lấy trộm, cướp giật…), có những trường hợp việc gây tai nạn là để đối phó với việc nạn nhân chạy trốn hoặc kháng cự, không tuân theo lệnh của người thực thi nhiệm vụ dẫn giải, có khi là để đối phó với việc nạn nhân vừa phạm pháp vừa chạy trốn, hoặc chạy trốn để hoàn thành việc phạm pháp (ví dụ vừa cướp vừa chạy trốn). Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người thực thi nhiệm vụ sử dụng vũ khí vì quá cẩu thả, không suy nghĩ tới hậu quả nghiêm trọng do hành vi của mình gây ra hoặc đơn giản là khi người này say rượu. Phần lớn các trường hợp, động cơ của người thực thi nhiệm vụ là muốn thi hành nhiệm vụ, muốn người phạm pháp không thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Mặc dù vậy, vẫn có những trường hợp người thực thi nhiệm vụ có động cơ cá nhân như muốn thỏa mãn sự bực tức vì thái độ của nạn nhân hoặc đơn giản chỉ là muốn tỏ ra mình có một uy quyền nhất định đối với nạn nhân.

Theo quy định của BLHS, bên cạnh các tội: Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 BLHS), Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 BLHS), còn có Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS) và Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS). Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải phân biệt để định tội danh cho đúng trường hợp nào là phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn trường hợp nào là phạm tội trong khi thi hành công vụ. Cũng cần phải khẳng định ở đây, nếu nạn nhân có hành vi vi phạm mang tính chất nhỏ nhặt, nạn nhân tuân thủ mệnh lệnh của người có thẩm quyền nhưng do hống hách, có thái độ coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác mà người có thẩm quyền lại có hành vi gây thương tích hoặc làm chết nạn nhân thì trường hợp này đương nhiên không được coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng cũng như phạm tội trong khi thi hành công vụ mà phải bị coi là trường hợp phạm tội thông thường. 

Để phân biệt giữa phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và phạm tội trong khi thi hành công vụ trong trường hợp bị cáo là người đang thi hành công vụ, cần làm rõ:

- Nếu hành vi gây thiệt hại cho nạn nhân là nhằm ngăn chặn sự tấn công của nạn nhân gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người thi hành công vụ hay người khác hoặc việc gây thiệt hại đó nhằm ngăn chặn nạn nhân có một hành vi xâm hại cho một lợi ích nào đó của xã hội trường hợp này nếu không cần thiết thì là phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

- Nếu hành vi gây thiệt hại là nhằm ngăn chặn một người phạm pháp trốn tránh pháp luật như : bỏ chạy, kháng cự không tuân theo (không có sự tấn công gây nguy hiểm cho tính mạng hoặc sức khỏe của người thực thi nhiệm vụ hay người khác), trong trường hợp này nếu không cần thiết thì là phạm tội trong khi thi hành công vụ.

Tuy nhiên, nếu người thực thi nhiệm vụ sử dụng vũ khí và đã gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng của những người trốn tránh chưa chấm dứt tội phạm thì vấn đề trở nên phức tạp hơn nhiều. Ví dụ: Hành vi của một người công an gặp một kẻ đang móc túi người khác, người công an đã hô đứng lại và bắn chỉ thiên nhưng tên trộm vẫn cầm cả ví tiền hòng chạy trốn cho nên người công an đã bắn chết tên trộm. Hành vi của người công an trong trường hợp này mang tính chất phòng vệ hay thi hành công vụ? Chính vì vậy, về vấn đề này cần có sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được chính xác và thống nhất.

4.6. Trường hợp Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với Phạm tội do tinh thần bị kích động mạnh

Theo tinh thần của Chỉ thị số 07/TANDTC ngày 22/12/1983 và Nghị quyết 02/HĐTP - TANDTC ngày 05/01/1986 thì hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần bảo vệ, hành vi đó bắt đầu và chưa kết thúc. Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là phòng vệ. Nhưng nếu trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc sau đó tiếp tục xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì người chống trả vẫn được xem là phòng vệ. 

Ví dụ: Tâm đánh Dũng, Dũng tức quá chạy về lấy dao chạy vào nhà chém Tâm nhưng Tâm đỡ được, Dũng tức vì không chém được Tâm lại bị Tâm xô ngã Dũng liền xông tới đánh mẹ của Tâm đang nằm liệt trên giường, Tâm dùng khúc cây đánh mạnh vào đầu Dũng vài hôm sau Dũng chết. Trong trường hợp này mặc dù hành vi xâm phạm của Dũng đối với Tâm đã kết thúc nhưng tiếp sau đó là hành vi của Dũng xâm hại tới sức khỏe của mẹ Tâm, Tâm vì bảo vệ mẹ nên đã lấy khúc cây gần đó chống trả lại hành vi của Dũng, hành vi của Tâm cũng được xem là hành vi phòng vệ chính đáng. Trên thực tế, hành vi này rất dễ bị lầm lẫn với hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 135 của BLHS 2015. Phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người thân thích của người chống trả, còn phòng vệ chính đáng người phòng vệ chống trả lại sự xâm hại của nạn nhân đối với lợi ích cần bảo vệ, lợi ích bảo vệ có thể là của bản thân hay lợi ích của người khác. Do đó, khi xét hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần bảo vệ thì pháp luật chưa quy định rõ trường hợp phòng vệ như trên.

5. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả của việc áp dụng chế định Phòng vệ chính đáng trong thực tiễn

Phòng vệ chính đáng là một vấn đề được nhiều người rất quan tâm vì trong cơ sở lý luận cũng như thực tiễn hiện nay còn có nhiều vấn đề vướng mắc cũng như áp dụng pháp luật khác nhau, trong khi văn bản hướng dẫn cụ thể chưa có hoặc đã hết hiệu lực. Để nâng cao năng lực, hiệu quả của việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm thì ngoài việc nắm vững cơ sở lý luận, các điều kiện của chế định Phòng vệ chính đáng… thì các cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, cụ thể là: 

-Đối với cơ quan bảo vệ pháp luật: Khi điều tra, truy tố, xét xử các trường hợp liên quan tới phòng vệ chính đáng phải nắm vững cơ sở lý luận và trách nhiệm hình sự về phòng vệ chính đáng, trong quá trình giải quyết vụ án cần thu thập đầy đủ mọi chứng cứ có liên quan, đồng thời phải xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện, "xét xử phải có tranh tụng" quan tâm tới yêu cầu phòng, chống tội phạm ở từng thời điểm, thời kỳ, từng nơi và cần hết sức tránh cách nhìn nhận vụ việc một cách phiến diện dẫn đến việc xét xử lệch lạc, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

- Tích cực nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật: Nhằm nâng cao ý nghĩa, phát huy tính tích cực của chế định phòng vệ chính đáng thì công tác tuyên truyền pháp luật trong đó có chế định phòng vệ chính đáng là hết sức quan trọng, làm sao để cho mọi người dân nói chung hiểu, nắm vững những quy định của pháp luật về phòng chính đáng là một quyền và được nhà nước khuyến khích thực hiện, qua đó giúp người dân ý thức được quyền và nghĩa vụ của họ trước những hành vi nguy hiểm cho xã hội và từ đó có thái độ, ý chí và lựa chọn hành động phù hợp, đúng đắn trước hành vi vi phạm. 

- Chế độ chính sách, động viên khen thưởng và phòng ngừa: Cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích đặc biệt trong việc phòng vệ tấn công trấn áp tội phạm cũng như bảo vệ cá nhân và gia đình những người tham gia công tác phòng, chống tội phạm. Có chính sách thoả đáng đối với các tập thể, cá nhân bị thương, hy sinh hoặc bị thiệt hại lớn về tài sản khi tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Có như vậy mới tạo được thế chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm để từng bước kiềm chế, làm giảm các loại hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm do các băng nhóm thực hiện theo kiểu xã hội đen gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân như thời gian gần đây.

6. Kết luận

Phòng vệ chính đáng là quyền của con người chứ không phải là nghĩa vụ, các quy định của pháp luật về phòng vệ chính đáng là cơ sở pháp lý quan trọng, giúp bảo vệ và khuyến khích người dân thực hiện quyền phòng vệ khi có hành vi xâm hại xảy ra để bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì vẫn phải chịu TNHS như các trường hợp phạm tội thông thường khác.

Tóm lại, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, bởi vì hành vi phòng vệ phù hợp với đạo đức xã hội, được nhà nước bảo vệ và khuyến khích thực hiện. Nắm vững những quy định của pháp luật về chế định phòng vệ chính đáng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt trong công tác xét xử nói chung và việc định tội danh nói riêng, từ đó tránh được những sai sót, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

HỒ QUÂN
Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 4
/mot-so-van-de-ve-tham-quyen-xet-xu-quy-dinh-tai-diem-b-khoan-2-dieu-268-bo-luat-to-tung-hinh-su-2015.html