/ Pháp luật - Đời sống
/ Ông Lê Tùng Vân bị truy tố liệu còn được tại ngoại không?

Ông Lê Tùng Vân bị truy tố liệu còn được tại ngoại không?

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Trong trường hợp ông Lê Tùng Vân vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở trái pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền hoàn toàn có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn từ cấm đi khỏi nơi cư trú sang tạm giam đối với ông này theo quy định của pháp luật.

Vừa qua, VKSND tỉnh Long An đã ban hành cáo trạng truy tố 06 bị can ở "Tịnh thất Bồng Lai" về tội "Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân".

Theo đó, 06 bị can bị truy tố gồm: Lê Tùng Vân (Sinh năm 1932), Lê Thanh Hoàn Nguyên (Sinh năm 1990), Lê Thanh Nhất Nguyên (Sinh năm 1991), Lê Thanh Trùng Dương (Sinh năm 1995), Cao Thị Cúc (Sinh năm 1960) và Lê Thanh Nhị Nguyên (Sinh năm 1998).

Đáng chú ý là trước đó, khi Công an tỉnh Long An tống đạt quyết định khởi tố bị can để điều tra về hành vi "Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm vi lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân" thì ông Lê Tùng Vân được giải quyết cho tại ngoại.

Vậy, liệu sau khi có quyết định truy tố ông Lê Tùng Vân còn được cho phép tại ngoại nữa hay không?

Theo quy định của pháp luật, khi cơ quan có thẩm quyền đã khởi tố bị can thì sẽ tạm giam, tạm giữ người đó để giúp quá trình điều tra, xét xử được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, căn cứ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân người phạm tội mà cơ quan chức năng có thể xem xét để không phải tạm giam người này. Pháp luật hiện hành không định nghĩa rõ ràng về tại ngoại, tuy nhiên có thể hiểu tại ngoại là việc đối tượng đã có quyết định điều tra, khởi tố nhưng không bị tạm giam.

Tại khoản 4, Điều 119, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:

- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

- Tiếp tục phạm tội;

- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Theo quy định trên thì trước đó Cơ quan điều tra đã không áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với bị can Lê Tùng Vân do bị can này là người già yếu (90 tuổi), có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, không có dấu hiệu tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn.

Như vậy, khi mức độ của hành vi phạm tội chưa đến mức phải tạm giam theo quy định nêu trên và việc cho người này tại ngoại không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể xét cho họ được tại ngoại.

Hiện nay, vụ án mới chỉ đang trong giai đoạn truy tố, trách nhiệm hình sự của các bị can ra sao sẽ còn phụ thuộc vào kết quả giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền, cũng như bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Nếu bị Tòa án kết án, tuyên là có tội thì ông Lê Tùng Vân vẫn sẽ phải chịu các trách nhiệm pháp lý theo đúng quy định của pháp luật. Ông Lê Tùng Vân vẫn phải tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ của bị can (có mặt theo giấy triệu tập, chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng) trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án.

Trong trường hợp ông Lê Tùng Vân vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở trái pháp luật hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền hoàn toàn có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn từ cấm đi khỏi nơi cư trú sang tạm giam đối với ông này theo quy định của pháp luật. 

Đối với việc thi hành án thì Bộ luật Hình sự cũng quy định người phạm tội từ đủ 70 tuổi trở lên có thể được tha tù trước thời hạn khi đã chấp hành ít nhất 1/3 mức án tù có thời hạn; hoặc ít nhất 12 năm với án tù chung thân được giảm xuống tù có thời hạn. Theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội từ đủ 70 tuổi trở lên, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả; hoặc thuộc trường hợp phạm tội do lạc hậu cũng sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

TIỀN HƯNG

Biệt thự của ông Chu Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Long liệu có bị kê biên tài sản?

Lê Minh Hoàng