/ Pháp luật - Đời sống
/ Thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh: Cần làm rõ căn cứ pháp lý trong việc cấp GCNQSDĐ cho người dân tại phường Hưng Trí

Thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh: Cần làm rõ căn cứ pháp lý trong việc cấp GCNQSDĐ cho người dân tại phường Hưng Trí

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Dù đã đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho người sử dụng đất, nhưng nhiều hộ dân sử dụng đất ở có vườn ao liền kề ổn định, không tranh chấp, lấn chiếm, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất lại không được phường Hưng Trí xác nhận cấp GCNQSDĐ.

Chủ tịch phường Hưng Trí trao đổi với người dân về cấp GCNQSDĐ.

Theo phản ánh, thửa đất ở có vườn ao của ông Lương Thanh Lộc và vợ là bà Phạm Thị Sáng (thuộc tổ dân phố Hưng Bình, phường Hưng Trí) có nguồn gốc do ông Lương Vĩ sử dụng từ năm 1979 để sản xuất và làm nhà ở. Năm 1990, ông Vĩ chuyển nhượng cho ông Lương Thanh Lộc cả nhà và đất. Năm 2003, gia đình ông Lộc sửa chữa lại nhà để ở, đến đầu năm năm 2010 thì tháo dỡ nhà cũ, xây nhà mới trên nền đất ở của gia đình ông Vĩ , tiếp tục sử dụng ổn định, liên tục, không tranh chấp.

Thửa đất đã được Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Kỳ Anh đo đạc nhiều lần theo yêu cầu của bà Phạm Thị Mai (Công chức địa chính phường). Theo Bản trích đo cuối cùng do bà Mai dẫn đạc, thửa đất có ký hiệu là thửa 41, tờ bản đồ số 99, diện tích 6.505,2m2. Gia đình ông Lộc nhất trí đề nghị UBND phường Hưng Trí xây dựng hồ sơ cấp 250m2 đất ở theo hạn mức, 1.096,3m2 đất trồng cây lâu năm và 5.158,9m2 đất trồng cây hàng năm khác trong cùng thửa đất có nhà ở.

Trước đó, UBND phường Sông Trí nhận Đơn xin cấp GCNQSDĐ do ông Lương Thanh Lộc đề ngày 16/11/2017. Sau đó, phường này đã họp xác định nguồn gốc, lấy ý kiến khu dân cư nhưng không hoàn thiện được hồ sơ do phải sáp nhập với xã Kỳ Hưng thành phường Hưng Trí. Đầu năm 2020, trao đổi với PV, ông Nguyễn Đình Tài, Chủ tịch phường khẳng định sự việc sẽ được giải quyết sau khi công tác tổ chức phường đi vào hoạt động ổn định.

Vậy mà từ đó đến nay, ông Lộc, bà Sáng và bà Hương (người được ông Lộc ủy quyền) nhiểu lần đến trụ sở UBND phường đề nghị hoàn thiện hồ sơ cấp GCNQSDĐ nhưng chỉ được nghe bà Mai cho biết hồ sơ đã được hoàn thành nhưng khi họp Hội đồng tư vấn còn có người còn chưa đồng thuận. Qua trao đổi, ông Nguyễn Đình Tài cho biết, khi họp  xác định nguồn gốc đất ông Lộc có nhà ở được xây dựng trước năm 2003, nhưng khi về thì có người điện đến nói rằng ông Lộc xây dựng nhà ở sau năm 2004 nên phải xem xét lại.

Ngày 12/5/2021, Chủ tịch UBND phường Hưng Trí chủ trì họp lấy ý kiến cán bộ có cùng thời điểm sử dụng đất với gia đình ông Lộc. Tại đây, ông Lộc và bà Sáng nêu rõ, gia đình ông đã sửa chữa nhà ở, giếng nước để ăn ở, sinh hoạt trên thửa đất mua của gia đình ông Vĩ từ trước năm 2003. Bằng chứng mà bà đưa ra để chứng minh là giếng nước ở sân nhà do gia đình ông Vĩ sử dụng đã được gia đình bà chữa sửa lại từ năm 2003 và được thợ làm giếng khắc dãy số “2003” bên thành giếng.

Ngày 19/5/2022, trao đổi về lý do hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ của ông Lương Thanh Lộc đã được thống nhất xây dựng đã hơn 03 năm qua mà không hoàn thiện được, bà Phạm Thị Mai trả lời, hội đồng tư vấn đã họp nhưng có ý kiến cho rằng ông Lộc làm nhà ở sau năm 2004.

Giếng nước nhà ông Lương Thanh Lộc được khắc “2003”.

Tương tự, gia đình ông Trần Xuân Hạ và vợ là bà Trương Thị Quế (thuộc Tiểu khu 1, TDP Hưng Lợi, phường Hưng Trí) tuy hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ và một số văn bản có liên quan thể hiện, bà Trương Thị Quế là nhân viên Công ty ăn uống huyện Kỳ Anh được thực hiện kế hoạch giao khoán và được UBND thị trấn Kỳ Anh cấp Giấy phép số 08 ngày 10/01/1988 cho bà được sử dụng 15m2 đất trên hành lang 203 Quốc lộ 1A để làm ốt kinh doanh. Gia đình bà Quế đã khai phá đất đai, san lấp mặt bằng phía sau phần đất đã xây dựng ki ốt để làm nhà ở, công trình phục vụ đời sống nhằm thuận tiện cho việc ăn ở, sinh hoạt và kinh doanh hàng ăn uống.

Nguồn gốc đất đai, nhà cửa của gia đình ông Hạ, bà Quế được minh chứng qua Thông báo số 36/TB-UBND ngày 21/12/2012 của UBND thị trấn Kỳ Anh về giải tỏa hành lang 203. Nội dung thông báo có đoạn viết: “Diện tích đất ban đầu: 15m2; Diện tích đất thực tế sử dụng 354,7m2. Trong đó diện tích nằm trên hành lang 203 - Quốc lộ 1A là 56,7m2. Công nhận công cải tạo đất: 56,7m2 x2,3m = 130,41m3…”

Theo hồ sơ 371, đất ở gia đình bà Quế đề nghị cấp GCNQSDĐ theo đơn đề ngày 12/6/2018 có ký hiệu là thửa 568, tờ bản đồ 371, diện tích 495,4m2, loại đất có ký hiệu chữ “T” và có ranh giới rõ ràng.

Theo trích đo địa chính do Văn phòng đăng ký đất đai Hà Tĩnh chi nhánh Kỳ Anh thực hiện, thửa đất ông Hạ đề nghị được cấp GCNQSDĐ có ký hiệu là thửa số 01, tờ bản đồ số 03, diện tích 410,3m2. Gia đình đề nghị được cấp 250m2 đất ở theo hạn mức và 160,3m2 đất trồng cây lâu năm. Hồ sơ đã được Công chức địa chính lập, mời ông Hạ đến trụ sở UBND phường ký, lấy phiếu ý kiến khu dân cư từ cuối năm 2020 nhưng đến nay không tổ chức họp Hội đồng Tư vấn đất đai, mặc dù ông Hạ và người được ủy quyền đề nghị với bà Phạm Thị Mai nhiều lần.

Khoản 1, Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai nêu rõ:

“1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:

a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức công nhận đất ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.

Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;…

d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại khoản 5 Điều này".

CHÍ THÚC

Đề nghị Công an can thiệp những diễn biến vụ bạo lực tại Trường quốc tế TP. HCM

Lê Minh Hoàng