/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Việt Nam trong trào lưu doanh nghiệp Mỹ chuyển dịch công nghệ khỏi Trung Quốc - vai trò của tính pháp lý

Việt Nam trong trào lưu doanh nghiệp Mỹ chuyển dịch công nghệ khỏi Trung Quốc - vai trò của tính pháp lý

10/02/2024 16:20 |

(LSVN) - Với tư cách một nhà nghiên cứu về Hoa Kỳ, trước những bước tiến rất quan trọng khi hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện tháng 09/2023 vừa qua, tác giả bài viết đi sâu phân tích về một số đặc thù của cạnh tranh công nghệ Mỹ - Trung và sự dịch chuyển đầu tư vào Việt Nam và tầm quan trọng của khía cạnh pháp lý trong bối cảnh Việt Nam gia tăng tiếp nhận đầu tư về công nghệ cao.

Ảnh minh họa.

Cạnh tranh công nghệ Mỹ - Trung và sự dịch chuyển đầu tư vào Việt Nam

Trong vòng năm năm qua Mỹ đã có những quyết sách mạnh mẽ nhằm chia tách một phần công nghệ mới nổi khỏi Trung Quốc. Sau nhiều thập kỷ hai nền kinh tế Mỹ - Trung hợp tác chặt chẽ với nhau thành công và cũng sau rất nhiều cáo buộc từ phía Mỹ về việc bị mất cắp và chảy máu công nghệ, giờ đây công nghệ không chỉ mang giá trị kinh tế cao mà còn gắn liền với an ninh quốc gia, hệ quả trở nên khôn lường buộc nước Mỹ phải có những quyết định cứng rắn(1). Phát triển công nghệ và bảo vệ bản quyền trí tuệ không chỉ đi đôi với tính kinh tế mà còn mang tính tồn vong.

Năm 2015 Trung Quốc đặt mục tiêu vươn lên tự chủ hoàn toàn về công nghệ và vươn lên dẫn đầu thế giới. Một năm sau đó, ông Donald Trump đắc cử tổng thống và kể từ năm 2018 ông cho thực thi chính sách chiến tranh thương mại dưới hình thức thuế quan. Một trong những mục tiêu là thúc đẩy các doanh nghiệp của Mỹ đầu tư trực tiếp ở Trung Quốc trở về Mỹ. Tổng thống Biden đi tiếp con đường mà người tiền nhiệm Trump đã khởi xướng, trong đó bao gồm thúc đẩy di chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các quốc gia thân thiện. Chuỗi chính sách của Mỹ nhằm chia tách một số mảng công nghệ cốt lõi khỏi Trung Quốc nhận được sự đồng thuận lưỡng đảng, và được tiếp nối qua các nhiệm kỳ tổng thống Mỹ.

Sự đồng lòng và quyết tâm của Mỹ, những biện pháp về mặt kinh tế và công nghệ quyết liệt trong khoảng thời gian ngắn vừa qua có tác động trực tiếp lên nhiều khía cạnh của kinh tế toàn cầu. Việc Trung Quốc phải đóng cửa vì đại dịch đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và phần nào do sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc sau Covid-19 không được như mong đợi, Chính phủ Mỹ kêu gọi và nhiều tập đoàn Mỹ lựa chọn dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc. Họ không rời đi chỉ vì lời kêu gọi của Tổng thống, hay sắc lệnh, hay vì chính sách hỗ trợ mà trở về Mỹ. Các doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong các quyết định và tính toán của mình. Họ lo ngại vì bối cảnh nền kinh tế của Trung Quốc không còn thân thiện và an toàn cho các doanh nghiệp Mỹ nữa: bất động sản bị khủng khoảng, hỗn loạn thị trường trái phiếu, đường lối của Chính phủ có thể sẽ dẫn đến chiến tranh với Đài Loan, chính quyền có phần bóp nghẹt công nghệ. Các CEO nhìn dài hạn và quyết định cần đưa công nghệ qua những quốc gia thân thiện với Hoa Kỳ hơn.

Tổng thống Biden giữ vững những mục tiêu của người tiền nhiệm, nhưng có phương pháp tuần tự, sắc bén hơn, vừa củng cố, vừa tiếp tục đẩy mạnh lên. Ngay sau khi nhậm chức ông đã cho thành lập Văn phòng Khoa học và Công nghệ ở cấp nội các với hàng trăm nhà chuyên gia làm việc cho Nhà Trắng, rất có tổ chức và quyền lực. Quan hệ làm việc giữa các ban ngành có tính quyết tâm cao hơn, không bị chia rẽ như trong nhiệm kỳ trước. Trước hết, chính quyền Biden đi vào xây dựng luật để khuyến khích đầu tư, ban hành những sắc lệnh cấm không cho Trung Quốc tiếp cận được công nghệ nguồn, hạn chế bán cho Trung Quốc thiết bị cốt lõi. Nước Mỹ giờ đây huy động được đồng minh châu Âu và châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc đồng hành. Các quốc gia phải mất vài năm để xây dựng luật nhưng một khi bước này được hoàn thành, khối phương Tây trở nên đoàn kết đến không ngờ, có sự hợp tác chưa từng có.

Để bảo vệ an ninh quốc gia, Mỹ và đồng minh đã tiến hành nhiều cuộc thảo luận song phương, đa phương để tạo liên minh. Những biện pháp kiểm soát do Mỹ, Hà Lan hay Nhật Bản áp đặt nhắm đến công nghệ mà Trung Quốc chưa nắm được. Mỹ đã mất vài năm để thuyết phục chính quyền Hà Lan đồng ý áp lệnh kiểm soát đối với một số loại chíp của ASML vào ngày 30/6/2023 vì lý do an ninh. Trung Quốc không thể sản xuất được chíp loại tiên tiến nếu không có máy quang khắc của công ty này. Phương Tây đã chặn mọi công ty, tập đoàn lớn nào của Trung Quốc tiếp cận được công nghệ bán dẫn và trí tuệ nhân tạo mà có thể bị sử dụng cho mục đích quân sự, như đã làm với Huawei và ZTE. Lệnh cấm do Mỹ đưa ra ngày càng chặt chẽ và kín kẽ.

Tổng thống Biden có cách tiếp cận rất chiến lược, rất chú ý đến mối liên hệ giữa công nghệ và an ninh quốc gia. Trong những công nghệ mới nổi, Trung Quốc gặp vấn đề rất lớn là không tự chủ được trong công nghệ bán dẫn. Quốc gia này phụ thuộc vào nước ngoài từ thiết kế đến sản xuất chất bán dẫn tiên tiến. Mỹ đã ban hành luật và sắc lệnh tổng thống để kiểm soát không cho Trung Quốc tiếp cận được toàn bộ chuỗi cung ứng về chất bán dẫn ở cấp tiên tiến, từ sản phẩm hoàn chỉnh đến mọi quy trình sản xuất, phần mềm thiết kế, đến nguồn tài chính đầu tư và cả nhân lực người Mỹ cũng không được làm việc trong một số công ty Trung Quốc.

Trong chuyến thăm chính thức tới Việt Nam ngày 10-11/9/2023, Tổng thống Biden thể hiện mong muốn đưa Việt Nam trở thành một trung tâm chất bán dẫn trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã cho thấy sự chủ động, sẵn sàng tiếp nhận sự hỗ trợ đó để phát triển lĩnh vực này. Nhờ sự linh hoạt đối ứng của Đảng và Nhà nước, đất nước ta dường như đang trở thành trung tâm kinh tế - chính trị mới nổi mới nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Đất nước Việt Nam đang đứng trước cuộc chuyển mình vĩ đại về công nghệ, đặc biệt là về chất bán dẫn, từ đây sẽ tạo đà tiến xa trong nỗ lực công nghiệp hóa đất nước. Nước Mỹ đi đầu về sức mạnh trong khoa học và công nghệ. Quốc gia này là cái nôi phát triển công nghệ bán dẫn. Các sản phẩm trong lĩnh vực chip bán dẫn tối quan trọng trong sản xuất các sản phẩm công nghệ.

Mỹ có thể giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị gia tăng của ngành chíp bán dẫn toàn cầu. Việt Nam tiến tới có khả năng làm chủ công nghệ và sở hữu các thiết kế chip. Một khi Việt Nam chuyển hướng đi sâu được vào công nghệ, có vị trí trong chuỗi sản xuất cốt lõi chất bán dẫn cho Hoa Kỳ và thế giới, sự làm việc chặt chẽ với phương Tây sẽ giúp Việt Nam tiến được từ công nghệ thấp trở thành một quốc gia công nghệ tầm trung và xa hơn. Nếu như hiện tại Việt Nam chủ yếu gia công làm thuê, trong tương lai có thể tiến tới 100% làm chủ trong tất cả mọi khâu cốt lõi của ngành bán dẫn.

Việc nhà đầu tư Mỹ chọn quốc gia đón nhận đầu tư không phụ thuộc nhiều vào chính sách của Chính phủ Mỹ, mà cơ bản dựa vào vị trí địa lý, môi trường đầu tư của quốc gia sở tại và các tính toán kinh doanh. Hai nhân tố chủ chốt tạo nên sự quan tâm ồ ạt từ phía các nhà đầu tư Mỹ đến Việt Nam là hệ thống chính trị ổn định và vị trí địa lý vừa gần thị trường tỷ dân Trung Quốc vừa ở trung tâm ASEAN.

Tầm quan trọng của tính pháp lý

Trước trào lưu chuyển dịch khỏi Trung Quốc, tại Đông Nam Á đang diễn ra cuộc chạy đua thu hút đầu tư vào công nghệ bán dẫn từ phía doanh nghiệp Mỹ. Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng xác định công nghệ cao là một trong những lĩnh vực tạo đột phá giúp Việt Nam tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhiệm vụ trọng tâm đặt ra cho toàn bộ hệ thống là thu hút được các nhà đầu tư chất bán dẫn Mỹ hiện diện và sản xuất, nghiên cứu phát triển tại Việt Nam.

Nâng tầm quan hệ với Mỹ mở ra cho Việt Nam cơ hội tiến lên thành cường quốc bậc trung về công nghệ. Đây là cơ hội, đồng thời là thử thách, đòi hỏi ở chúng ta nỗ lực rất lớn về mọi mặt, trong đó khía cạnh pháp lý đóng vai trò rất quan trọng. Việt Nam đã và đang xây dựng nhiều cơ chế ưu đãi đầu tư hấp dẫn cho nhà đầu tư ngành bán dẫn, sẽ được áp dụng những ưu đãi cao nhất trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.

Chúng ta cần hành động để thực hiện và cụ thể hóa được những nội dung trong thông cáo chung xứng với sự nâng tầm quan hệ. Sự quan tâm của nhà đầu tư Mỹ đồng nghĩa với việc Việt Nam cần đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn trong chuỗi giá trị toàn cầu của tập đoàn công nghệ Mỹ, bao gồm nâng cao năng lực cạnh tranh, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, cải thiện chất lượng dịch vụ, tuân thủ quy định về sở hữu trí tuệ, quản lý dữ liệu và tăng cường đổi mới sáng tạo. Sự hợp tác thông qua đầu tư giữa hai bên sẽ bao gồm Hoa Kỳ chuyển giao một phần công nghệ và Việt Nam cung cấp lực lượng lao động chất lượng cao. Sau đây là một số điểm trong lĩnh vực pháp lý có tác động tiếp sức cho bước chuyển
mình về công nghệ của Việt Nam.

Nét văn hóa pháp lý cao của Mỹ Mỹ là đất nước thượng tôn pháp luật, trong quản lý có sự nhất quán giữa nói và làm cao, và rõ ràng. Nhà đầu tư được hưởng hệ thống luật pháp minh bạch, cởi mở, hạn chế sự can thiệp hành chính vào kinh doanh, sản xuất…

Người Mỹ tin vào luật pháp và quen chọn biện pháp giải quyết xung đột theo kênh pháp lý. Nước Mỹ đưa những vấn đề còn tranh cãi, từ tối cao hay nguyên lý cơ bản, ra trước tòa để tòa phán xét, phân định theo Hiến Pháp. Nước Mỹ cũng càng ngày càng trở nên một xã hội thiên về khiếu kiện. Chỉ trong ba thập kỷ của thế kỷ 20 tính từ năm 1960, số lượng vụ khởi kiện dân sự ra tòa liên bang Mỹ đã tăng gấp ba. Ước tính tổng số vụ kiện mỗi năm được đưa ra trước tòa ở Mỹ là 30 triệu(2). Tại thời điểm năm 2023, cựu Tổng thống Donald J. Trump cũng đang bị bủa vây bởi kiện cáo phải kêu gọi đóng góp hỗ trợ từ người dân.
Nước Mỹ đã xây dựng được cơ sở nền tảng về pháp lý hết sức đồ sộ, nhưng luôn sẵn sàng với những vấn đề mới nảy sinh cần giải quyết, trong đó có khoa học và công nghệ. Quốc hội Mỹ đã xây dựng thành công một số đạo luật quan trọng về công nghệ và hiện đang tiến hành nhiều phiên điều trần các CEO tập đoàn công nghệ lớn để xây dựng đạo luật quản lý AI, mạng xã hội… Sự bảo đảm về pháp lý là đặc biệt quan trọng đối với nhà đầu tư Mỹ. Nếu như ở Việt Nam, vai trò của luật sư chủ yếu là ở khâu kiện tụng thì theo cách làm của doanh nghiệp Mỹ, tư vấn luật sư đóng vai trò chủ chốt ngay từ những bước đầu tiên. Làm việc với Mỹ sẽ luôn cần bảo đảm tính pháp lý, kín kẽ cho cả hai bên. Đó là đặc tính của một xã hội đặt vị trí của tính pháp lý lên rất cao.

Việt Nam nâng tầm bảo đảm về pháp lý cho công nghệ

Trong lĩnh vực công nghệ, nước Mỹ luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của khung pháp lý bảo vệ bản quyền trí tuệ, đáp ứng được nhu cầu bảo mật, bảo hộ công nghệ (tránh để mất công nghệ vào tay đối thủ là Trung Quốc). Vấn đề bảo mật và bản quyền trí tuệ trong thiết kế và sản xuất chất bán dẫn trải
qua rất nhiều bước là hết sức quan trọng đối với nhà đầu tư Mỹ.

Để duy trì môi trường đầu tư cạnh tranh lành mạnh, được pháp luật sở tại bảo vệ, Việt Nam cần ngăn chặn được gian lận trong thương mại, nỗ lực bảo vệ bản quyền trí tuệ. Cố vấn an ninh quốc gia Jake Sullivan dùng thuật ngữ “vườn nhỏ rào cao” để nói lên rằng trong một số lĩnh vực công nghệ hẹp, cần phải dựng những bức tường bảo hộ chặt chẽ và kín đáo(3). Truyền thuyết Mỵ Nương - Trọng Thủy còn vang vọng. Việt Nam không để mình trở thành mắt xích yếu trong tường lửa bảo vệ công nghệ của Mỹ.

Việt Nam đã có Luật Đầu tư năm 2020 điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các bên tham gia ở mọi lĩnh vực. Rất có thể Chính phủ Mỹ sẽ quan tâm bảo hộ nhà đầu tư cũng như chính sách của Mỹ, nên sẽ muốn có những hiệp định cấp chính phủ để bảo hộ. Việt Nam và Mỹ đã có Hiệp định Thương mại song phương (BTA) 2000. Tuy nhiên, Hiệp định này đã ký từ cách đây hai thập kỷ trong bối cảnh Việt Nam và Mỹ mới khai thông quan hệ, vì vậy có thể sẽ không còn đáp ứng được đầy đủ trong bối cảnh phát triển công nghệ hiện nay. Có thể Mỹ sẽ đề nghị Việt Nam ký thêm hoặc sửa đổi Hiệp định BTA theo hướng bảo vệ công nghệ cốt lõi, những lợi ích của Mỹ trong vấn đề này trước cuộc cạnh tranh với Trung Quốc. Vì vậy, Việt Nam cũng cần xác định có thể chấp nhận đến đâu để đổi lại cho cơ hội phát triển đất nước. Việc này cần tham khảo các nước Singapore, Đài Loan, Malaysia, châu Âu…

Hệ thống chính sách bảo đảm cạnh tranh lành mạnh

Khi chọn địa điểm đầu tư, nhà đầu tư Mỹ luôn nghiên cứu kỹ khung pháp lý và tình hình quản lý của nước sở tại. Cơ hội này đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, đòi hỏi sự chuyển mình từ cấp trung ương trong quản lý nhà nước, hệ thống pháp luật, đến vai trò của luật sư có hiểu biết cả về pháp lý và công nghệ. Một khi hành lang pháp lý đáp ứng được những mối quan tâm, e ngại chính đáng của nhà đầu tư và Chính phủ Mỹ, nhà đầu tư sẽ yên tâm đầu tư.
Trong quản lý nhà nước, đây là thời điểm Việt Nam cần giải quyết các vấn đề như thay đổi chính sách ưu đãi cho các ngành công nghệ mới nổi và đơn giản hóa thủ tục hành chính, gia tăng sự minh bạch, quản lý có hệ thống. Để thu hút nhà đầu tư Mỹ trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI này, Việt Nam cần cho thấy:

1. Việt Nam có hệ thống pháp luật theo hướng đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và ổn định.

2. Thủ tục hành chính thông thoáng, nhanh gọn.

3. Đã loại bỏ được những chính sách hay hoạt động có thể mở đường cho tham nhũng, tham ô, lót tay, tránh gây nhũng nhiễu khiến doanh nghiệp Mỹ rất phản cảm.
 
Lộ trình nhanh (fast-track) cho nhà đầu tư Mỹ

Bối cảnh đòi hỏi chúng ta cần có những quyết sách kịp thời và nhạy bén đồng hành cùng doanh nghiệp. Các thủ tục, quy định pháp luật của ta tuy đã tốt lên, nhưng có thể vẫn chưa đủ nhanh nhạy để đón dòng đầu tư công nghệ Mỹ. Để sửa đổi pháp luật hoặc thủ tục hành chính cần thời gian và điều này có thể làm cho cơ hội vuột khỏi tay. Bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư đòi hỏi cần hành động nhanh chóng. Việt Nam cần có bước đột phá mà khả thi nhất là thiết lập cơ chế đặc biệt cho tiếp nhận đầu tư công nghệ cao, như là kênh xử lý nhanh, hoặc thành lập một ủy ban trong Chính phủ để có thể quyết nhanh những vấn đề chưa được quy định trong pháp luật, hoặc chưa phù hợp với pháp luật hiện hành, nhưng sẽ có lợi cho đất nước, trao quyền cho ủy ban trình bày thẳng lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Như vậy, Việt Nam bảo đảm đón nhận được làn sóng và cơ hội phát triển công nghệ này.

Dịch vụ pháp lý

Đi kèm với cơ hội tham gia ngày càng sâu của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là với Mỹ, là những nhu cầu rất lớn về các loại dịch vụ pháp lý do Việt Nam cung cấp. Khi nhà đầu tư Mỹ mang theo quy trình sản xuất và công nghệ, luật pháp của đất nước sở tại rất quan trọng. Hiện nay, khi nhà đầu tư Mỹ vào Việt Nam, họ sẽ tìm đến các công ty luật mạnh của Mỹ như Baker & McKenzie hoặc một vài công ty Việt kiều nổi trội.

Những lĩnh vực trong công nghệ mới nổi đòi hỏi sự hiểu biết cả về công nghệ lẫn pháp lý và rất cần được trau dồi thêm. Đội ngũ luật gia, luật sư Việt Nam luôn cần được tham gia những khóa ngắn hạn nâng cao năng lực, cập nhật không chỉ luật pháp Việt Nam mà cả của Mỹ, của các nước tiên tiến, luật pháp quốc tế để tham mưu cho các nhà đầu tư cũng như chính phủ Việt Nam trong việc hoàn thiện khung pháp luật. Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ có thêm nhiều công ty luật danh tiếng cung cấp dịch vụ pháp lý đầy đủ và hữu hiệu cho các nhà đầu tư công nghệ Mỹ.

Đào tạo nhân lực pháp lý cao cấp Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp đều cần đẩy mạnh việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cao về công nghệ cũng như pháp lý. Đề án phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam không thể thiếu nguồn nhân lực cao về tư pháp, pháp lý, chính sách. Hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam cần được cải cách và đổi mới để đào tạo nhân sự cấp cao.

Mỹ là cường quốc về khoa học và công nghệ và có công nghệ nguồn lớn nhất thế giới. Trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, Hoa Kỳ cũng là nơi có thế mạnh tốt nhất. Theo mô hình Mỹ, đào tạo ngành luật thuộc cấp trên đại học, dựa trên quan niệm rằng phải có hiểu biết cơ bản về cuộc sống mới có thể học về quản lý bằng luật pháp.

a) Về nhân lực, Việt Nam cần sớm đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ cao để tận dụng được mối quan hệ hợp tác với Mỹ - và để Mỹ đạt được những kết quả nhanh chóng mà các tập đoàn Mỹ mong đợi. Về ngắn hạn, Việt Nam cần xem xét sửa đổi luật để cho phép nhân lực cao nước ngoài vào làm việc và xây dựng cơ chế quản lý riêng cho lĩnh vực công nghệ cao để kịp đón nhận được làn sóng đầu tư.

b) Trong nỗ lực đổi mới công nghiệp hoá đất nước đón nhận đầu tư công nghệ từ Mỹ, Việt Nam cần đổi mới trong đào tạo về luật. Trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, mối liên kết trong giáo dục là một lĩnh vực hợp tác có ý nghĩa sâu rộng và đã được bắt đầu từ lâu. Tuyên bố chung của lãnh đạo hai nước đã nhấn mạnh hợp tác trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những trọng tâm của quan hệ song phương. Trong khuôn khổ này, phía Việt Nam có thể chủ động đặt vấn đề phía Mỹ hỗ trợ đào tạo nhân lực chất lượng cao về ngành luật, theo nội dung phù hợp với nhu cầu của Việt Nam, chuyên ngành về công nghệ cao. Những chương trình liên kết hoặc hỗ trợ trong đào tạo pháp luật cũng sẽ mang lại hiệu quả.

c) Nước Mỹ là một hệ thống khá mở, cho phép sự tham gia vào quá trình xây dựng chính sách từ nhiều thành phần. Việt Nam rất cần nhân lực đủ năng lực tham gia vào tranh biện, lobby có đăng ký trong những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh quốc gia, hay những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, giúp bảo vệ quyền lợi quốc gia.

Như vậy, cơ hội đang mở ra cho tương lai công nghiệp chế tạo của Việt Nam. Bối cảnh cũng đòi hỏi cơ chế, chính sách của Việt Nam đồng bộ, đầy đủ, chi tiết, bám sát thực tế và điều chỉnh chính sách phù hợp, theo thông lệ quốc tế. Bước tiến trong quan hệ Việt - Mỹ vừa qua cho thấy sự sáng suốt của Đảng và Nhà nước, sự linh hoạt nắm bắt thời cơ của thời đại. Song song với thiết lập kênh nhanh chóng, Việt Nam cần có kế hoạch cấp tốc đào tạo kỹ sư công nghệ và nhân sự pháp lý cao cấp ngay. Nhiệm vụ đặt ra hết sức nặng nề cho đội ngũ pháp lý.

(1)    Bateman, Jon. (2022).

(2)    Garry, P.M. (1997).

(3)    Sullivan, Jake. (13/10/2022).

 

Tài liệu tham khảo

1. Sách

- Miller, Chris. (2022). Chip War: The Fight for the World’s Most Critical Technology, Scribner.

- Garry, P.M. (1997). America’s Litigation Obsession. In: A Nation of Adversaries. Springer, Boston, MA.

2. Văn kiện và bài phát biểu

- Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ về nâng cấp. quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện, 11/9/2023.

- Sullivan, Jake. (13/10/2022). “Remarks by National Security Advisor on the Biden-Harris Administration’s National Security Strategy”, White House.

3. Báo cáo

- Bateman, Jon. (2022). U.S.-China Technological “De-coupling”, Carnegie Endowment for International Peace.

- Task Force on US-China Policy, (2022) China’s New Direction: Challenges and Opportunities for US Policy, Asia Society.

NCS BÙI THỊ PHƯƠNG LAN

Viện Nghiên cứu Châu Mỹ

Bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng khi mua hàng trên sàn giao dịch thương mại điện tử

Nguyễn Hoàng Lâm