/ Kinh tế - Pháp luật
/ Vụ ATS kiện VPBank: Cần thực hiện đúng những nội dung các bên đã thỏa thuận

Vụ ATS kiện VPBank: Cần thực hiện đúng những nội dung các bên đã thỏa thuận

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) – Căn cứ theo Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM của Tòa án nhân dân (TAND) quận Ba Đình, một trong 2 bên tham gia thỏa thuận cho rằng, các bên tham gia giao dịch phải tôn trọng, nghiêm túc thực hiện những gì các bên đã thỏa thuận. Dưới góc độ nhìn nhận về mặt pháp lý, Luật sư đã có những nhận định về vấn đề này.

Năm 2011, Công ty Cổ phần Đầu tư ATS (Công ty ATS) thế chấp 08 tài sản và Công ty Tập đoàn Tư vấn đầu tư tài chính và Bất động sản Quảng Đại thế chấp 01 tài sản cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) để đảm bảo cho khoản vay của 04 Hợp đồng tín dụng tại VPBank với tổng số tiền vay 796.210.224.046 đồng. Trong các tài sản thế chấp có quyền sử dụng diện tích 62.539,8m2 đất tại thửa số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã được UBND quận Ngũ Hành Sơn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM607502 ngày 23/9/2009 tại Văn phòng đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) TP. Đà Nẵng. Ngoài ra, giữa VPBank và Công ty ATS còn ký kết 01 hợp đồng đặt cọc mua bán tài sản, 01 Hợp đồng cho thuê văn phòng.

Ngày 11/01/2013, VPBank khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại đối với Công ty ATS tại TAND quận Ba Đình, TP. Hà Nội để giải quyết tranh chấp đối với 06 hợp đồng nêu trên.

Ngày 11/6/2013, TAND quận Ba Đình ban hành Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM về việc công nhận sự thoả thuận của các đương sự: Công ty ATS xác nhận còn nợ VPBank các khoản tiền theo 04 Hợp đồng tín dụng có tổng giá trị là 1.528.886.167.897 đồng, trong đó VPBank đồng ý miễn giảm cho Công ty ATS số tiền lãi 67.131.932.137 đồng; (tuy nhiên các con số này không có trong hồ sơ được thiết lập giữa Công ty ATS và VPBank) tổng toàn bộ nghĩa vụ nợ của ATS và Quảng Đại là: 1.461.754.235.760 đồng.

Mục 7 Quyết định số 05 nêu rõ: “… Trường hợp Công ty Cổ phần Đầu tư ATS và/hoặc Công ty cổ phần tập đoàn tư vấn đầu tư tài chính và bất động sản Quảng Đại không thực hiện việc bàn giao đăng ký sang tên tài sản cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) theo đúng thoả thuận nêu trên. Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án buộc Công ty cổ phần đầu tư ATS phải thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) số tiền 1.461.754.235.760 đồng và phát mại toàn bộ tài sản thế chấp để bảo đảm thi hành án…”.

Theo thỏa thuận tại mục 7 Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM, nếu Công ty ATS không thực hiện việc bàn giao, đăng ký sang tên tài sản cho VPBank thì VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc Công ty ATS phải thanh toán tiền nợ và phát mại tài sản thế chấp để bảo đảm việc thi hành án. Theo thỏa thuận, khi Công ty ATS không thực hiện đăng ký sang tên tài sản thế chấp, VPBank phải yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Công ty ATS cho rằng, các bên tham gia giao dịch phải tôn trọng, nghiêm túc thực hiện những gì các bên đã thỏa thuận. Trong trường hợp này, các bên đã thỏa thuận là Công ty ATS mới là người có quyền và nghĩa vụ thực hiện việc bàn giao và làm các thủ tục đăng ký biến động sang tên tài sản, VPBank hoàn toàn không được tự ý thực hiện các thủ tục này.

Tòa cấp phúc thẩm nhận định: “... Như vậy, sau khi TAND quận Ba Đình ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013, thì Công ty ATS không nghiêm chỉnh thực hiện “bàn giao, đăng ký sang tên tài sản cho VPBank theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 59 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về giao dịch bảo đảm” nên VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản thế chấp để bảo đảm thi hành án và trên thực tế VPBank đã yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình thi hành đối với tòa nhà gắn liền đất thuê tại địa chỉ số 05 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội để bảo đảm thi hành án; nhưng VPBank lại lập hồ sơ trình Văn phòng đăng ký đất đai sang tên quyền sử dụng thửa đất số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn cho VPBank là không theo tiền lệ đã yêu cầu thi hành án tài sản tại Hà Nội, trái với thỏa thuận của hai bên đã được Tòa án nhân dân quận Ba Đình công nhận tại Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013”.

Có thể thấy, Tòa cấp phúc thẩm đã chỉ rõ những vấn đề của VPBank và VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng trong việc đăng ký biến động sang tên tài sản nêu trên của Công ty ATS cho VPBank. VPBank nộp hồ sơ yêu cầu VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng, chỉnh lý, sang tên quyền sử dụng thửa đất số 02 cho VPBank mà không yêu cầu Cơ quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản thế chấp là trái với thỏa thuận của hai bên đã được công nhận tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013 của TAND quận Ba Đình.

Tuy nhiên, ngày 09/02/2021 TANDTC đã ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 04/2021/KN-HC đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 148/2019/HC-PT, ngày 30/08/2019 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng. Tại Quyết định kháng nghị Giám đốc Thẩm này, TANDTC cho rằng, yêu cầu bổ sung đơn kháng cáo của Công ty ATS là vượt quá phạm vi khởi kiện.

Theo Luật sư Hoàng Tùng, Trưởng Văn phòng Luật sư Trung Hòa, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Thi hành án 2008 sửa đổi năm 2014 quy định về thực hiện Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo đó, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

Về thời hiệu yêu cầu thi hành án, trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Luật sư Hoàng Tùng.

Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.

Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.

"Như vậy, trường hợp một bên không thực hiện thì bên còn lại có quyền yêu cầu thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự để bảo đảm quyền lợi của mình", Luật sư Tùng nói.

PV

Vụ ATS kiện VPBank: Vấn đề pháp lý xoay quanh yêu cầu bổ sung kháng cáo

Vụ ATS kiện VPBank: Những vấn đề pháp lý xung quanh việc cấp GCNQSDĐ

Nguyễn Mỹ Linh