/ Kinh tế - Pháp luật
/ Vụ ATS kiện VPBank: Những vấn đề pháp lý xung quanh việc cấp GCNQSDĐ

Vụ ATS kiện VPBank: Những vấn đề pháp lý xung quanh việc cấp GCNQSDĐ

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) – Theo thỏa thuận giữa các bên, VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản thế chấp để bảo đảm thi hành án và trên thực tế VPBank đã yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) quận Ba Đình thi hành đối với tòa nhà gắn liền đất thuê tại địa chỉ số 05 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội để bảo đảm thi hành án; nhưng trong trường hợp này VPBank lại lập hồ sơ trình Văn phòng Đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) sang tên quyền sử dụng thửa đất số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn cho VPBank. Vậy, vấn đề pháp lý đặt ra trong sự việc này ra sao?

Như trước đó đã đưa tin, liên quan đến vụ Công ty Cổ phần đầu tư ATS (Công ty ATS) kiện Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), tại thỏa thuận ở mục 7 Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM của Tòa án nhân dân (TAND) quận Ba Đình ban hành về việc công nhận sự thoả thuận của các đương sự, nếu Công ty ATS không thực hiện việc bàn giao, đăng ký sang tên tài sản cho VPBank thì VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc Công ty ATS phải thanh toán tiền nợ và phát mại tài sản thế chấp để bảo đảm việc thi hành án.

Theo thỏa thuận trên, khi Công ty ATS không thực hiện đăng ký sang tên tài sản thế chấp, VPBank phải yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ, nhưng VPBank lại lập hồ sơ trình VPĐKĐĐ sang tên quyền sử dụng thửa đất số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn cho VPBank không theo tiền lệ đã yêu cầu thi hành án tài sản tại Hà Nội, không đúng với thỏa thuận của hai bên đã được TAND quận Ba Đình công nhận tại Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013.

Về vấn đề này, Công ty ATS cho rằng, ông Trần Hữu Văn Dũng không có quyền thay mặt Công ty ATS thực hiện các thủ tục đăng ký sang tên tài sản và lập Tờ khai thuế thu nhập trong hồ sơ đăng ký biến động đất đai tại VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng. Vì trong Hợp đồng ủy quyền ngày 30/5/2013, ký giữa bà Nguyễn Thị Thoa - đại diện theo pháp luật của Công ty ATS, và ông Trần Hữu Văn Dũng, thể hiện rõ nội dung và phạm vi ủy quyền là: ông Trần Hữu Văn Dũng được thay mặt và nhân danh bên A (bà Thoa) đại diện cho Công ty ATS thực hiện các thủ tục liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng tài sản mà Công ty ATS sẽ ký với VPBank, hoàn toàn không có nội dung nào cho phép ông Dũng được kê khai, lập tờ khai thuế TNDN theo Quyết định số 05 của TAND quận Ba Đình. Hơn nữa, thời điểm ký Hợp đồng ủy quyền này trước khi ký Quyết định số 05 của TAND quận Ba Đình. Nội dung hợp đồng ủy quyền cũng chỉ cho phép ông Dũng thực hiện các thủ tục kê khai, nộp thuế theo Hợp đồng chuyển nhượng mà Công ty ATS sẽ ký với VPBank. Do đó, ông Dũng không có quyền thay mặt Công ty ATS thực hiện các thủ tục đăng ký sang tên tài sản và lập Tờ khai thuế thu nhập trong hồ sơ đăng ký biến động đất đai tại VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng.

Tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp (mẫu 2) theo quy định tại Thông tư số 151/2014 TT-BTC ngày 10/10/2014 của Bộ Tài chính chỉ dùng trong hoạt động chuyển nhượng bất động sản theo từng lần phát sinh, còn trường hợp gán tài sản thế chấp theo Quyết định 05 là không phát sinh thu nhập thì Công ty ATS không phải kê khai nộp thuế; ông Dũng kê khai trong khai Tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp: Doanh thu từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản là 843.754 235.760 đồng là đúng bằng giá chuyển nhượng trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/6/2013 chứ không phải kê khai theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05.

Ngoài ra, theo nội dung Hợp đồng ủy quyền ngày 30/5/2013 thì ông Dũng khi đại diện, nhân danh Công ty ATS được “sử dụng con dấu của Công ty ATS trong các hợp đồng, tài liệu, văn bản mà bên B (ông Dũng) ký kết để thực hiện công việc ủy quyền...”; trong khi Tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp do ông Dũng đại diện Công ty ATS kê khai không đóng dấu Công ty, nhưng VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng vẫn chấp nhận?.

Tòa cấp phúc thẩm nhận định rõ, sau khi TAND quận Ba Đình ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013, thì Công ty ATS không nghiêm chỉnh thực hiện “bàn giao, đăng ký sang tên tài sản cho VPBank theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 59 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về giao dịch bảo đảm” nên theo thỏa thuận VPBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài sản thế chấp để bảo đảm thi hành án và trên thực tế VPBank đã yêu cầu Chi cục THADS quận Ba Đình thi hành đối với tòa nhà gắn liền đất thuê tại địa chỉ số 05 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội để bảo đảm thi hành án; nhưng VPBank lại lập hồ sơ trình VPĐKĐĐ sang tên quyền sử dụng thửa đất số 2, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn cho VPBank là không theo tiền lệ đã yêu cầu thi hành án tài sản tại Hà Nội, không đúng với thỏa thuận của hai bên đã được TAND quận Ba Đình công nhận tại Quyết định số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013.

VPBank nộp hồ sơ yêu cầu VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng, chỉnh lý, sang tên quyền sử dụng thửa đất số 02 cho VPBank mà không yêu cầu Cơ quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản thế chấp không đúng với thỏa thuận của hai bên đã được công nhận tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013 của TAND quận Ba Đình.

VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng chỉnh lý biến động sang tên quyền sử dụng thửa đất số 02 cho VPBank vi phạm trình tự, thủ tục về đăng ký biến động đất đai nên Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm xét thấy, lẽ ra cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty ATS hủy phần chỉnh lý, sang tên VPBank quyền sử dụng thửa đất số 02, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn cấp ngày 23/9/2009 để khôi phục lại quyền sử dụng thửa đất cho Công ty ATS mới đúng. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, sau khi được chỉnh lý, sang tên quyền sử dụng thửa đất số 02, tờ bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn trên trang sau GCNQSDĐ số AM607502 do UBND quận Ngũ Hành Sơn cấp ngày 23/9/2009 thì ngày 07/3/2017 VPBank đã ký Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho vợ chồng ông Ngô Trọng Hiếu, bà Nguyễn Thị Hải Yến; vợ chồng ông Hiếu, bà Yến đã chuyển nhượng thửa đất lại cho Công ty Hai Hạnh; Công ty Hai Hạnh cũng đã phân lô chuyển nhượng đất cho nhiều người và những người nhận chuyển nhượng sau này đều đã được cấp các GCNQSDĐ nên căn cứ Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015 về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình, HĐXX phúc thẩm không hủy phần chỉnh lý, sang tên VPBank quyền sử dụng thửa đất số 02 này.

Tại bản án phúc thẩm của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng, HĐXX chấp nhận kháng cáo bổ sung của Công ty ATS không hủy đăng ký chỉnh lý biến động sang tên VPBank ngày 20/3/2015 trên GCNQSDĐ số AM607502 của Công ty ATS, xác định Công ty ATS có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự yêu cầu VPBank bồi thường thiệt hại vì giao dịch dân sự (do VPBank chủ động, tích cực tiến hành sang tên VPBank quyền sử dụng thửa đất số 02, bản đồ số 95, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn trái thỏa thuận của hai bên đã được TAND quận Ba Đình công nhận tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2013/QĐST-KDTM ngày 11/6/2013) vô hiệu (do căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, và Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015, HĐXX không tuyên hủy đăng ký chỉnh lý biến động sang tên VPBank ngày 20/3/2015 trên GCNQSDĐ số AM657502 nên vấn đề này không cần đặt ra) và yêu cầu xem xét trách nhiệm của VPĐKĐĐ TP. Đà Nẵng theo quy định tại Điều 206, 207 Luật Đất đai 2013, được hướng dẫn tại khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Trao đổi về một số vấn đề pháp lý liên quan đến việc chỉnh lý, sang tên quyền sử dụng thửa đất, Luật sư Hoàng Tùng, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, việc chỉnh lý, sang tên quyền sử dụng đất hay còn gọi là đăng ký biến động đất đai phải tuân theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Nghị định 43/2014/NĐ-CP, Thông tư 24/2014/TT-BTNMT. Theo đó, trình tự, thủ tục đăng ký biến động đất đai trong trường hợp này được quy định tại Điều 84 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT.

Điều 9. Hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất

…5. Hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong các trường hợp giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai; xử lý nợ hợp đồng thế chấp, góp vốn; kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất để thi hành án; chia, tách, hợp nhất, sáp nhập tổ chức, chuyển đổi công ty; thỏa thuận hợp nhất hoặc phân chia quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình, của vợ và chồng, của nhóm người sử dụng đất, bao gồm:

a) Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK;

b) Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp;

c) Một trong các loại giấy tờ gồm: Biên bản hòa giải thành (trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi ranh giới thửa đất thì có thêm quyết định công nhận của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền) hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo quy định của pháp luật; văn bản thỏa thuận hoặc hợp đồng thế chấp, góp vốn có nội dung thỏa thuận về xử lý tài sản thế chấp, góp vốn và văn bản bàn giao tài sản thế chấp, góp vốn theo thỏa thuận; quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án đã được thi hành có nội dung xác định người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; văn bản kết quả đấu giá quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo yêu cầu của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản hoặc yêu cầu của Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án đã được thi hành; hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận phân chia hoặc hợp nhất hoặc chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của tổ chức trong trường hợp chia, tách, hợp nhất, sáp nhập tổ chức, chuyển đổi công ty; hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình hoặc của vợ và chồng hoặc của nhóm người sử dụng đất chung, nhóm chủ sở hữu chung tài sản gắn liền với đất;

d) Trường hợp phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của tổ chức phải có văn bản chia, tách, hợp nhất, sáp nhập tổ chức theo quy định của pháp luật; trường hợp phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải có sổ hộ khẩu kèm theo; trường hợp phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của vợ và chồng phải có sổ hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận kết hôn hoặc ly hôn kèm theo.

Luật sư Tùng đánh giá, theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của hai bên, Điều 2, Điều 7 và Điều 9 Luật THADS năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 thì trong trường hợp này bên VPBank phải có yêu cầu thi hành án đến cơ quan thi hành án để giải quyết theo trình tự pháp luật. VPBank không thể tự mình thực hiện quyết định của Tòa án khi mà phía Công ty ATS đang phản đối, không thực hiện theo quyết định công nhận sự thỏa thuận.

Liên quan đến vấn đề về ủy quyền và việc nộp hồ sơ thuế thu nhập doanh nghiệp, Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về ủy quyền. Theo đó, hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.

Luật sư Hoàng Tùng.

Về nghĩa vụ của bên được ủy quyền, Điều 565 quy định cụ thể như sau:

- Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc đó.

- Báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền.

- Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy quyền.

- Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền.

- Giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

- Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều này.

Khai thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định tại Điều 6 Thông tư 151/2013/TT-BTC, Điều 16 Thông tư 151/2014/TT-BTC. Cụ thể, người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế trực tiếp ký hoặc giao cho cấp phó của mình ký thay trên các văn bản, hồ sơ giao dịch với cơ quan thuế thuộc các lĩnh vực được phân công phụ trách. Việc giao ký thay phải được quy định bằng văn bản và lưu tại doanh nghiệp.

Về ủy quyền trong giao dịch với cơ quan thuế:

- Người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế có thể ủy quyền cho cấp dưới ký thừa ủy quyền các văn bản, hồ sơ giao dịch với cơ quan thuế.

- Người nộp thuế là cá nhân có thể ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác (trừ trường hợp đại lý thuế thực hiện theo khoản 3 Điều này) được thay mặt mình thực hiện giao dịch với cơ quan thuế thì phải có văn bản ủy quyền theo Bộ luật Dân sự.

- Văn bản ủy quyền phải quy định cụ thể thời hạn, phạm vi ủy quyền. Văn bản ủy quyền phải gửi cơ quan thuế cùng văn bản, hồ sơ giao dịch lần đầu trong khoảng thời gian ủy quyền.

Trường hợp người nộp thuế ký hợp đồng dịch vụ làm thủ tục về thuế với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế (sau đây gọi chung là đại lý thuế) thì người đại diện theo pháp luật của đại lý thuế ký tên, đóng dấu vào phần đại diện hợp pháp của người nộp thuế trên văn bản, hồ sơ giao dịch với cơ quan thuế. Trên tờ khai thuế phải ghi đầy đủ họ tên và số chứng chỉ hành nghề của nhân viên đại lý thuế. Các văn bản, hồ sơ giao dịch đại lý thuế thực hiện chỉ trong phạm vi công việc thủ tục về thuế được ủy quyền nêu trong hợp đồng dịch vụ làm thủ tục về thuế đã ký.

Chậm nhất 05 (năm) ngày trước khi thực hiện lần đầu các công việc thủ tục về thuế nêu trong hợp đồng, người nộp thuế phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế biết về việc sử dụng dịch vụ làm thủ tục về thuế và gửi kèm theo bản chụp hợp đồng dịch vụ làm thủ tục về thuế có xác nhận của người nộp thuế.

Quyền và trách nhiệm của đại lý thuế thực hiện theo văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính về hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế.

Trường hợp cơ quan thuế cần thông báo những vấn đề liên quan đến văn bản, hồ sơ do đại lý thuế thực hiện theo sự ủy quyền của người nộp thuế thì cơ quan thuế thông báo cho đại lý thuế, đại lý thuế có trách nhiệm thông báo cho người nộp thuế.

“Trường hợp trong Hợp đồng ủy quyền đã nêu rõ nội dung và phạm vi ủy quyền là ông Trần Hữu Văn Dũng được thay mặt và nhân danh bên A (bà Thoa) đại diện cho Công ty ATS thực hiện các thủ tục liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng tài sản mà Công ty ATS sẽ ký với VPBank, hoàn toàn không có nội dung nào cho phép ông Dũng được kê khai, lập tờ khai thuế TNDN theo Quyết định số 05 của TAND quận Ba Đình, thì việc làm của ông Dũng đã vượt quá phạm vi được ủy quyền”, Luật sư Tùng bày tỏ quan điểm.

PV

Vụ ATS kiện VPBank: Vấn đề pháp lý xoay quanh yêu cầu bổ sung kháng cáo

Admin