/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Hoàn thiện quy định của pháp luật để đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong vụ án hình sự

Hoàn thiện quy định của pháp luật để đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong vụ án hình sự

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) – Bài viết này góp phần chỉ ra một số quy định của pháp luật cần được hoàn thiện để đảm bảo hoạt động bào chữa của Luật sư được thực thi trên thực tế, qua đó cũng góp phần thúc đẩy hoàn thiện quá trình cải cách tư pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.

Ảnh minh họa.

Đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình cải cách tư pháp, qua đó để đảm bảo các vụ án hình sự được xét xử một cách khách quan, công bằng, tránh oan, sai nhằm đảm bảo quyền con người, bảo đảm công lý được thực thi.

Thời gian qua, nhiều quy định của pháp luật đã có những giải pháp ngày càng hoàn thiện để đảm bảo hoạt động bào chữa của Luật sư, tuy nhiên thực thi quyền này trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc khiến cho quyền của Luật sư chưa được thực thi một cách thuận lợi và hiệu quả.

Bài viết này góp phần chỉ ra một số quy định của pháp luật cần được hoàn thiện để đảm bảo hoạt động bào chữa của Luật sư được thực thi trên thực tế, qua đó cũng góp phần thúc đẩy hoàn thiện quá trình cải cách tư pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.

Quyền bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có quyền tự mình bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa trước những cáo buộc của cơ quan có thẩm quyền về một hành vi phạm tội. Quyền bào chữa đã được Hiến pháp 2013 lần đầu tiên ghi nhận là một trong các quyền con người cần được bảo vệ [1] và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật  quy định các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải có trách nhiệm đảm bảo quyền bào chữa được thực thi trên thực tế [2]. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 tại Điều 16 quy định bảo đảm quyền bào chữa là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và đảm bảo cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa.

Có thể phát huy hết giá trị của nguyên tắc này và tạo được khả năng cân bằng bảo vệ người bị buộc tội trước những cáo buộc của cơ quan công tố phần lớn hiện nay phụ thuộc vào Luật sư. Đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa cũng là đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình cải cách tư pháp, đảm bảo các vụ án hình sự được xét xử một cách khách quan, công bằng, tránh oan, sai nhằm đảm bảo quyền con người, bảo đảm công lý được thực thi.

Thời gian qua, nhiều quy định của pháp luật tư pháp hình sự và pháp luật Luật sư đã có những giải pháp ngày càng hoàn thiện để đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự. Tuy nhiên việc thực thi trên thực tế vẫn tồn tại nhiều vướng mắc chính từ quy định pháp luật khiến cho các quyền của Luật sư chưa được thực thi một cách thuận lợi và hiệu quả. Vận dụng các quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong thực tế hành nghề, các tác giả nhận thấy còn một số bất cập và chúng tôi có một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015), cụ thể như sau:

Thứ nhất, kiến nghị bỏ quy định về đăng ký bào chữa

Theo BLTTHS 2015, trong mọi trường hợp tham gia tố tụng hình sự, người bào chữa dù là Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý đều phải thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ các giấy tờ đăng ký từ người bào chữa, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và nếu thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa. Các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền từ chối việc đăng ký Luật sư nhưng phải nêu rõ lý do [3].

Theo các tác giả, việc quy định đăng ký bào chữa như một thủ tục hành chính xin - cho như hiện nay đã trực tiếp cản trở hoạt động của người bào chữa và làm phức tạp hóa việc thực thi một quyền con người đã được hiến định. Trên thực tế quy định này có thể làm cho người bào chữa tham gia tố tụng bị chậm trễ, nhiều trường hợp bị kéo dài thời gian đăng ký trong khi cơ quan điều tra lại không chờ cho đến khi nào người bào chữa đăng ký xong mới lấy lời khai. BLTTHS quy định cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt; phải hỏi cung bị can ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can [4] trong khi người bào chữa phải chờ 24 giờ hoặc một thời gian lâu hơn để cơ quan tiến hành tố tụng đăng ký bào chữa mới thực hiện được quyền của mình.

Cùng với đó, chúng tôi cho rằng việc bào chữa của Luật sư xuất phát từ đề nghị của người bị buộc tội, chỉ cần ý kiến của người bị buộc tội đã phát sinh tư cách bào chữa của Luật sư mà không cần phải chờ đợi sự đồng ý của cơ quan tiến hành tố tụng mới được thực hiện. Do vậy, chúng tôi kiến nghị bỏ thủ tục đăng ký bào chữa, thay vào đó, người bào chữa chỉ cần trình cơ quan tiến hành tố tụng những giấy tờ cần thiết cho việc bào chữa như giấy yêu cầu Luật sư của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội (không áp dụng với trường hợp chỉ định người bào chữa), Thẻ Luật sư (với người bào chữa là Luật sư), văn bản cử người của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (với bào chữa viên nhân dân),… là đã được thực hiện ngay các hoạt động bào chữa, bảo vệ thân chủ của mình.

Việc xác minh lại các trường hợp không được bào chữa thuộc công việc nội bộ của cơ quan tiến hành tố tụng mà không làm ảnh hưởng đến quyền của Luật sư. Nếu phát hiện thuộc các trường hợp không được bào chữa đã được quy định, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể hủy bỏ tư cách bào chữa. Hơn nữa, nếu thực sự có trường hợp gian dối, trường hợp người không đủ tư cách bào chữa đăng ký bào chữa thì trong vòng 24 giờ cũng không khả thi để xác minh. Việc người bào chữa khi thực hiện quyền của mình phải xuất trình giấy tờ chứng minh đủ tư cách bào chữa là đảm bảo cho hoạt động bào chữa, đồng thời người bị buộc tội trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng đều có thể từ chối người bào chữa nếu họ muốn, do đó không cần phải làm các thủ tục phức tạp xác minh ý kiến của họ.

Thứ hai, kiến nghị bổ sung quyền của người bị buộc tội được tạm hoãn các thủ tục tố tụng để chờ sự tham vấn của người bào chữa

Quyền của người bị buộc tội được quy định từ các Điều 58 đến Điều 61 BLTTHS 2015; theo nội dung các điều này, người bị buộc tội không có quyền được đề nghị tạm hoãn các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian hợp lý để chờ sự tham vấn của người bào chữa. Điều 73 BLTTHS 2015 cũng không quy định người bào chữa được quyền xin tạm hoãn các thủ tục tố tụng để có đủ thời gian nghiên cứu về vụ việc để thực hiện việc bào chữa. Thực tế, có những vụ án hình sự người bào chữa được mời bào chữa gấp rút, hoặc đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo mới lựa chọn người bào chữa khiến cho người bào chữa không đủ thời gian để tiếp xúc bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ việc để đưa ra hướng bào chữa tốt nhất. Việc bổ sung quyền của người bị buộc tội được quyền yêu cầu tạm hoãn các thủ tục tố tụng trong một khoảng thời gian hợp lý để chờ được sự trao đổi, tham vấn của người bào chữa là cần thiết.

Quyền được tạm hoãn thủ tục tố tụng để được sự tham vấn của người bào chữa đã được pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia ghi nhận. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 quy định mọi người đều có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn. Quy định này cũng được tìm thấy trong Công ước châu Âu về Bảo vệ Nhân quyền và các Quyền Tự do Cơ bản (đoạn 1 Điều 6), Công ước châu Mỹ về Nhân quyền (Điều 2), Hiến chương Arập về Nhân quyền (Điều 16), Nguyên tắc và Hướng dẫn về Quyền đượcXét xử Công bằng và Trợ giúp Pháp lý ở Châu Phi, năm 2001…[5] Tại Đức và Australia quyền này cũng được thừa nhận và áp dụng trên thực tế [6].

Do vậy, xuất phát từ nhu cầu của thực tế phát sinh và tiếp thu những nội dung tiến bộ của pháp luật quốc tế, các tác giả kiến nghị bổ sung quyền cho người bị buộc tội được tạm hoãn các thủ tục tố tụng để chờ sự tham vấn của người bào chữa.

Thứ ba, kiến nghị mở rộng đối tượng được chỉ định người bào chữa

Luật sư có thể được cử để tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự có người bị buộc tội có quyền được có người bào chữa chỉ định. Khoản 1 Điều 76 BLTTHS 2015 quy định bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi là những đối tượng được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa khi họ, người đại diện hoặc người thân thích không mời người bào chữa.

Phạm vi những người được quyền có người có người bào chữa chỉ định như trên của pháp luật Việt Nam nếu đối chiếu với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người thì có thể thấy còn rất hạn chế. Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1976 (ICCPR), Quy chế Roma của Tòa án hình sự quốc tế 1998, Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư năm 1990 … đều quy định người bị buộc tội có quyền được chỉ định trợ giúp pháp lý miễn phí với điều kiện người đó “không có đủ khả năng chi trả” và “vì lợi ích công lý” (căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hình phạt mà người đó thể phải đối mặt và họ không thể tự mình bào chữa) [7].

Pháp luật Đức tại Điều 140 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các trường hợp bắt buộc phải có sự tham gia và có mặt của Luật sư bào chữa, trong đó có cả các trường hợp khi bị can/bị cáo đang bị giam giữ, bị tam giam; bị can/bị cáo bị truy tố về một tội nghiêm trọng hay quá trình tố tụng có thể dẫn đến lệnh cấm làm một công việc nhất định;… Ngoài ra, trong những trường hợp khác, thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ chỉ định người bào chữa theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật nếu sự trợ giúp của Luật sư là rất cần thiết bởi tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, hoặc bởi sự khó khăn của sự việc hay vụ án, hoặc nếu có bằng chứng cho rằng người bị buộc tội không thể tự bào chữa cho chính họ. Yêu cầu người bào chữa của người bị buộc tội bị khiếm khuyết về khả năng nghe và nói cũng sẽ được đảm bảo [8]. Với Cộng hòa Liên Bang Nga, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2001 quy định Luật sư biện hộ phải có mặt tại phiên tòa trong những trường hợp xét xử có bồi thẩm đoàn, vụ án liên quan đến người chưa thành niên, người không có năng lực hành vi hoặc bị cáo không nói được tiếng Nga hay liên quan đến những tội phạm có thể bị phạt tù trên 15 năm [9]. Ở Mỹ, quyền được chỉ định người bào chữa được áp dụng cho những trường hợp bị cáo buộc về hình phạt tù [10],…

Đối chiếu với các quy định tiến bộ nêu trên, các tác giả đề xuất hướng mở rộng đối tượng được bắt buộc chỉ định bào chữa, cần áp dụng quy định này đối với cả người phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc những trường hợp đặc thù khác.

Cùng với đó, việc xác định như thế nào là một người có nhược điểm về tinh thần, nhược điểm về thể chất trong bối cảnh hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng là rất khó khăn, đặc biệt đối với các trường hợp các nhược điểm này không phải là bẩm sinh mà mới xuất hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Do vậy, cần có quy phạm hướng dẫn cụ thể vấn đề này, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng khi phát hiện người bị buộc tội có các nhược điểm thể chất, tinh thần ảnh hưởng để khả năng tự bảo vệ, bào chữa cho mình và quy định rõ giá trị của các lời khai, chứng cứ được xác lập trong thời gian phát sinh các nhược điểm về tinh thần, thể chất của người bị buộc tội.

Thứ tư, kiến nghị về quyền Luật sư được giao tiếp bí mật, hoàn toàn riêng tư với người bị buộc tội

Theo Điều 73 BLTTHS 2015 quy định có hai trình tự cuộc gặp của người bào chữa với người bị buộc tội: (1) Cuộc gặp, hỏi, làm việc riêng, chủ động của người bào chữa với người bị buộc tội và (2) Người bào chữa tham gia lấy lời khai, hỏi cung theo kế hoạch của cơ quan điều tra; chỉ được đặt đâu hỏi khi điều tra viên đồng ý, nếu được phép đặt câu hỏi và trả lời thì nội dung phải ghi rõ trong biên bản, Luật sư đọc lại, xác nhận và ký tên trên biên bản.      

Với cuộc gặp riêng giữa Luật sư và người bị buộc tội được hướng dẫn tại Điều 12 Thông tư 46/2019/TT-BCA, theo đó cơ sở giam giữ phải giải quyết yêu cầu gặp mặt của người bào chữa, trong trường hợp cần thiết thì báo với cơ quan thụ lý vụ án để cử người tham gia giám sát.

Các quy định nêu trên đã kế thừa các giá trị tiến bộ của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1976, nguyên tắc số 08 trong Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư 1990: “8. Tất cả những người bị bắt, giam hay cầm tù phải được tạo ra các cơ hội, thời gian và phương tiện đầy đủ để Luật sư đến thăm, và được trao đổi hay tư vấn hoàn toàn riêng với Luật sư không chậm trễ, không bị theo dõi hay kiểm duyệt. Những cuộc tiếp xúc hay tư vấn như vậy, có thể được tiến hành trong tầm nhìn, nhưng không trong tầm nghe của các nhân viên thi hành luật pháp.”. Tuy nhiên, với quy định tùy nghi như hiện nay chưa có hướng dẫn như thế nào là “xét thấy cần thiết” để cơ quan tiến hành tố tụng cử người tham gia giám sát nếu áp dụng trên thực tế sẽ rất có khả năng xảy ra các trường hợp xác định theo ý chí của các cơ quan tố tụng mà không có một cơ sở xác đáng.

Thực tế khi thực thi quyền này, các Luật sư đã gặp phải rất nhiều trở ngại, những người tiến hành tố tụng có rất nhiều lý do để từ chối cho Luật sư gặp thân chủ hoặc yêu cầu phải giám sát cuộc gặp này như cho rằng sẽ xảy ra tình trạng thông cung, làm lộ bí mật điều tra, chuyển tin tức tội phạm ra bên ngoài, tư vấn cho bị can, bị cáo không hợp tác với cơ quan điều tra, thay đổi lời khai, vận chuyển những vật dụng trái phép ra/vào trại giam… Những lý do này là lý lẽ chủ quan của các cơ quan tố tụng nhưng lại trực tiếp cản trở đến quyền thăm gặp, giao tiếp của Luật sư, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động bào chữa.

Do vậy, cần thiết chỉnh sửa quy định này theo hướng người bị buộc tội được tạo mọi điều kiện thuận lợi, được phép liên lạc tự do với người bào chữa của mình và những nội dung trao đổi này không bị giám sát. Đồng thời cần có quy định pháp luật giới hạn rõ các trường hợp nào được cho là cần thiết có sự giám sát của cơ quan tiến hành tố tụng với mục đích hạn chế tình trạng tùy nghi áp dụng dẫn đến cản trở quyền của Luật sư.

Thứ năm, kiến nghị sửa đổi quyền của người bào chữa được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can mà không cần sự đồng ý của người có thẩm quyền khi lấy lời khai, hỏi cung

Lời khai của người bị buộc tội trong các lần cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động lấy lời khai, hỏi cung được xác định là một nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự. Không khó để có thể thấy có những kết luận điều tra, cáo trạng, bản án sử dụng lời khai của bị can, bị cáo làm chứng cứ để buộc tội, quy kết trách nhiệm cho họ dù chưa thống nhất, đánh giá các chứng cứ khác. Trước sự quan trọng của các lần lấy lời khai, hỏi cung này, Luật sư cần được trao các quyền cụ thể thực hiện một số hoạt động nhất định.

Theo BLTTHS 2015, người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can nhưng lại chỉ được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can khi người có thẩm quyền đồng ý [11]. Theo quy định này thì việc có cho phép người bào chữa hỏi bị can, người bị bắt, bị tạm giam hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, kiểm sát viên. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể các trường hợp nào điều tra viên, kiểm sát viên được từ chối quyền hỏi của người vào chữa. Do vậy, nếu bị từ chối, người bào chữa chưa có cơ sở pháp lý để khiếu nại hành vi này.

Quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam nếu đối chiếu với pháp luật các quốc gia khác sẽ thấy được quyền hạn của Luật sư trong quá trình thẩm vấn tại Việt Nam đã bị hạn chế rất nhiều. Tại Đan Mạch, Luật sư của các bị cáo được dừng cuộc thẩm vấn để tư vấn câu trả lời cho bị cáo hoặc cho bị cáo nhiều lần không trả lời câu hỏi. Ở Bulgaria và Romania, Luật sư có vai trò tích cực hơn, có thể can thiệp vào quá trình thẩm vấn bằng cách tư vấn cho bị cáo, hỏi những câu hỏi, yêu cầu làm rõ câu hỏi, ngừng thẩm vấn và nói rằng bị cáo sẽ không trả lời thêm nữa, yêu cầu đặt lại câu hỏi nếu câu hỏi đang dẫn dắt câu trả lời, yêu cầu soạn lại biên bản hỏi cung cho chính xác, khuyên bị cáo không ký vào biên bản, yêu cầu giải lao để thảo luận với bị cáo… Tại các nước này, điều duy nhất mà Luật sư không thể làm là trả lời thay cho bị cáo [12].

Việc Luật sư đươc quyền hỏi người bị bắt, tạm giữ, bị can trong các buổi hỏi cung, lấy lời khai của điều tra viên, kiểm sát viên không chỉ góp phần làm sáng tỏ các nội dung, tình tiết sự việc đã bỏ sót mà cơ quan tiến hành tố tụng thông qua các câu hỏi có thể biết được định hướng bào chữa của người bào chữa, từ đó xem xét vụ án khách quan và toàn diện hơn. Do vậy, cần có hướng dẫn quy định về quyền hỏi của người bào chữa trong các buổi thẩm vấn của người có thẩm quyền theo hướng người bào chữa có quyền tự do hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can các câu hỏi liên quan đến vụ án. Người có thẩm quyền chỉ được từ chối những câu hỏi không liên quan đến vụ án hoặc có mục đích khác. Việc hỏi của Luật sư phải được lập thành biên bản nêu rõ câu hỏi, câu trả lời, những câu hỏi bị người có thẩm quyền từ chối, lý do từ chối.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung Điều 74 BLTTHS 2015 theo hướng cho phép người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can đối với các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia

Quy định tại Điều 74 BLTTHS 2015 hiện nay đã hạn chế sự tham gia của người bào chữa trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, theo đó, với trường hợp này người bào chữa chỉ được tham gia tố tụng khi kết thúc điều tra. Có ý kiến cho rằng sở dĩ có quy định như vậy là do người bào chữa nếu tham gia ngay từ đầu quá trình tố tụng sẽ không giữ được bí mật điều tra, làm lộ bí mật nhà nước… Theo các tác giả, nếu vì lý do sợ làm lộ bí mật điều tra mà hạn chế việc bào chữa của Luật sư là không có cơ sở, không xác đáng và đang mang một tâm lý tiêu cực về người Luật sư. Trong một vụ án hình sự, nhiệm vụ đảm bảo, giữ bí mật điều tra, bí mật an ninh quốc gia không chỉ thuộc về người bào chữa mà những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng khác đều phải thực hiện. Điều 177 BLTTHS 2015 đã quy định trường hợp điều tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều tra thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Các cơ chế xử lý trách nhiệm này cũng đã được hoàn thiện [13]. Do vậy, không thể lấy lý do, một nghĩa vụ, trách nhiệm chung và đã có cơ chế xử lý cụ thể để hạn chế quyền tham gia tố tụng của người bào chữa tại giai đoạn điều tra.

Đồng thời, quy định tại Điều 74 BLTTHS 2015 còn không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền bào chữa, quyền được bảo vệ như nhau. Sự tham gia của người bào chữa ngay từ đầu đối với tất cả các vụ án sẽ đảm bảo hiệu quả thực thi quyền bào chữa và riêng đối với vụ án về tội phạm an ninh quốc gia mang tính nhạy cảm, phức tạp này sự tham gia của người bào chữa còn góp phần đảm bảo hoạt động điều tra được thực hiện toàn diện, đầy đủ và khách quan hơn.

Vì vậy, đối với quy định tại Điều 74 BLTTHS cần thiết sửa đổi theo hướng mở rộng hơn, cho phép người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, hoặc từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ ở tất cả các vụ án hình sự mà không có trường hợp loại trừ nào.

Thứ bảy, bổ sung chế tài xử lý đối với người tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác vi phạm nghĩa vụ hợp tác trong hoạt động thu thập chứng cứ với người bào chữa

So với pháp luật tố tụng hình sự trước đây, BLTTHS 2015 đã bổ sung đầy đủ hơn nội dung quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Người bào chữa được tự mình thu thập chứng cứ, có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa [14]. Nếu người bào chữa gặp khó khăn khi thu thập chứng cứ thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập [15].

Các quy định mới này được kỳ vọng sẽ làm giảm bớt sự cách biệt quá lớn về lợi thế chứng minh giữa bên buộc tội với bên bào chữa. Tuy nhiên, với quy định về nghĩa vụ nhưng không gắn liền với chế tài xử lý như hiện nay sẽ khó đảm bảo các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân, tổ chức, cơ quan liên quan có thể tích cực hợp tác cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của người bào chữa. Do vậy, cần thiết phải bổ sung chế tài xử lý đối với người tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác vi phạm nghĩa vụ hợp tác trong hoạt động thu thập chứng cứ với người bào chữa.

Thứ tám, kiến nghị thay đổi trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm

Hiện nay, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo trình tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó chủ tọa phiên tòa sẽ quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi sau [16]. Trình tự này là không hợp lý, bởi vụ án hình sự phát sinh là do có sự buộc tội của Viện Kiểm sát, cáo buộc của Viện Kiểm sát là yếu tố làm khởi động vụ án hình sự, từ đó sẽ làm phát sinh nhu cầu gỡ tội của bị cáo và vai trò độc lập xét xử của Tòa án. Kiểm sát viên phải là chủ thể được đặt câu hỏi trước để chứng minh cho các cáo buộc của mình là có căn cứ, sau đó người bào chữa được tìm kiếm thông tin bào chữa, gỡ tội cho bị cáo thông qua các câu hỏi. Trong khi xét hỏi, Hội đồng xét xử chỉ nên giữ vai trò xét xử khách quan, giữ nhiệm vụ điều hành phiên toà, kiểm soát quá trình tố tụng mà không phải là người thẩm tra. Trách nhiệm của Hội đồng xét xử là xem xét chứng cứ và tranh luận giữa các bên để đưa ra phán quyết.

Việc thay đổi trình tự xét hỏi như nêu trên còn thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc đảm bảo tính tranh tụng khi xét xử vụ án hình sự. Nguyên tắc tranh tụng được Hiến pháp khẳng định cần đến sự phân vai rõ ràng giữa các chủ thể và nhờ đó các chủ thể hình thành ra “hai bên” trong vụ án - bên buộc tội và bên bào chữa với lợi ích tố tụng độc lập, khác nhau và đối lập nhau [17]. Do vậy, khi xét xử vụ án hình sự cần phải đảm bảo bên buộc tội và bên bào chữa được tạo mọi điều kiện để bảo vệ quan điểm, lợi ích của mình, thông qua việc được ưu tiên hỏi trước, được quyền chủ động đặt câu hỏi để chứng minh cho các tình tiết vụ án theo lý lẽ của mình. Đối với vấn đề đảm bảo tính tranh tụng trong xét xử, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 [18] đã tiến bộ hơn khi quy định thứ tự hỏi được thực hiện theo đúng bản chất vụ án dân sự xuất phát từ tranh chấp của các bên; theo đó nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước; tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; những người tham gia tố tụng khác; Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên tham gia phiên tào hỏi sau cùng thể hiện đúng chức năng Hội đồng xét xử điều hành phiên tòa và Kiểm sát viên thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.

Thực tế khi hành nghề chúng tôi đã từng chứng kiến rất nhiều vụ án hình sự Hội đồng xét xử đã thực hiện thay chức năng buộc tội của viện kiểm sát, đặt nhiều câu hỏi mang dụng ý buộc tội, gán ghép trách nhiệm. Nhiều vụ án kiểm sát viên không cần đặt thêm câu hỏi nào để chứng minh căn cứ buộc tội của mình. Các Luật sư, người bào chữa bị cắt câu hỏi, yêu cầu tạm dừng với lý do cho rằng Hội đồng xét xử đã nhắc đến trước đó. Chúng tôi cho rằng mỗi một câu hỏi mang dụng ý của người hỏi, cùng với nội dung nhưng cách đặt vấn đề khác nhau sẽ có thể có các trả lời khác nhau, từ đó nhiều khía cạnh của vụ án mới có thể được đưa ra để xem xét toàn diện. Vì vậy cần thiết ưu tiên quyền đặt hỏi trước với kiểm sát viên (thực hiện chức năng buộc tội) và người bào chữa (thực hiện chức năng gỡ tội), đảm bảo tính tranh tụng của vụ án, đảm bảo Hội đồng xét xử được tiếp cận đầy đủ, toàn diện, khách quan với chứng cứ vụ án để có phán quyết đúng pháp luật và thuyết phục.

Trên đây là các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật để đảm bảo quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa trong vụ án hình sự được thực thi hiệu quả, từ đó bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của những người bị buộc tội, bảo vệ quyền con người và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác xét xử vụ án hình sự.

[1] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013

“Chương II. QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

… Điều 31. …4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa.”

[2] Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014:

Điều 14. Trách nhiệm chứng minh tội phạm và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự

… Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.

Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa; đương sự khác trong vụ án có quyền tự mình hoặc nhờ người bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.

Tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự.”

- Trách nhiệm đảm bảo quyền bào chữa của Viện kiểm sát được quy định tại Phần II [Về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo] tại Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP, ngày 02/10/2004 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

- Với Cơ quan cảnh sát điều tra có Thông tư 46/2019/TT-BCA, (Bộ Công an, ngày 10 tháng 10 năm 2019) Quy định trách nhiệm của lực lượng công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bộ luật tố tụng hình sự 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.

[3] Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[4] Khoản 1 Điều 114, khoản 1 Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[5] Liên Hợp Quốc (tháng 01/2014), Tiếp cận sớm trợ giúp pháp lý trong quá trình tố tụng hình sự: Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn.

[6] Liên Hợp Quốc, (tháng 08/2010), Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam.

[7] Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976: “Điều 14…3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng nhưng bảo đảm tối thiểu sau đây:

d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;…”

Điều 14.3(d) Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976,

Quy chế Roma của Tòa án hình sự quốc tế 1998, có hiệu lực từ ngày 01/7/2002“Điều 67. Quyền của bị cáo …d. Căn cứ vào Điều 63, khoản 2, được có mặt khi xét xử, được tự mình bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của bị cáo, được thông báo, nếu bị cáo không có trợ giúp pháp lý, về quyền này và được nhận sự trợ giúp pháp lý do Tòa án chỉ định trong bất kỳ trường hợp nào nếu điều đó là cần thiết để bảo đảm công lý, và miễn phí nếu bị cáo không đủ điều kiện chi trả;”

Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư, 1990: “Những bảo vệ đặc biệt trong các vấn đề tư pháp hình sự: …5. Các chính phủ phải bảo đảm rằng, mọi người đều được cơ quan chức năng có thẩm quyền thông báo ngay lập tức về quyền được một Luật sư trợ giúp theo sự lựa chọn của họ, ngay khi bị bắt hay bị giam giữ hoặc khi bị cáo buộc phạm tội hình sự.6. Bất cứ ai trong hoàn cảnh trên mà không có Luật sư riêng, thì trong mọi trường hợp công lý đòi hỏi như vậy, đều có quyền có một Luật sư có kinh nghiệm và năng lực phù hợp với tính chất của tội phạm đã quy kết cho họ để hỗ trợ pháp lý một cách hiệu quả, và miễn phí nếu họ không có đủ khả năng chi trả những dịch vụ như vậy.:”

[8] Nguyễn Quyết Thắng (2015), Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/208298/Quyen-bao-chua-trong-to-tung-hinh-su-Cong-hoa-Lien-bang-duc.html, truy cập lần cuối ngày 05/6/2021.

[9] Mô hình tố tụng hình sư Liên Bang Nga, https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/145, truy cập lần cuối ngày 05/6/2021.

[10] Xem án lệ: Bett v. Brady, 316 U.S 455 (1942), Gideon v, Wainwright 372 U.S.335 (1963), Argersinger  v. Hamlin, 407, U.S 25 (1972).

[11] Điểm b khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[12] https://op.europa.eu/en/publication-detail/-/publication/9e42de7a-e0dc-11e9-9c4e-01aa75ed71a1/language-en,truy cập lần cuối ngày 05/6/2021.

[13] Các quy định chế tài xử lý hành vi tiết lộ bí mật điều tra, bí mật an ninh quốc gia:

- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: “Điều 177. Không được tiết lộ bí mật điều tra

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải yêu cầu người tham gia tố tụng không được tiết lộ bí mật điều tra. Yêu cầu này được ghi vào biên bản.

Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, người tham gia tố tụng tiết lộ bí mật điều tra thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”

- Xử phạt hành chính các hành vi tiết lộ bí mật nhà nước đã được quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/20213 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị định 15/2020/NĐ-CP, ngày 03/2/2020 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.

- Trường hợp hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị truy tố hình sự về Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước theo Điều 337 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 hoặc các tội phạm khác nếu đủ yếu tố cấu thành.

[14] Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[15] Khoản 3 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[16] Xem tại khoản 2 Điều 307, khoản 1 Điều 354 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[17] Lê Nguyên Thanh (2015), Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08, trang 17-23.

[18] Xem tại Điều 249 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an, Thông tư 46/2019/TT-BCA, ngày 10/10/2019 Quy định trách nhiệm của lực lượng công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bộ luật tố tụng hình sự 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

2. Chính Phủ, Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/20213 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình;

3. Chính Phủ, Nghị định 15/2020/NĐ-CP, ngày 03/2/2020 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử;

4. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP, ngày 02/10/2004 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

5. Lê Nguyên Thanh (2015), Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08;

6. Liên Hợp Quốc (tháng 08/2010), Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam;

7. Liên Hợp Quốc (1990), Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư;

8. Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị;

9. Liên Hợp Quốc (tháng 01/2014), Tiếp cận sớm trợ giúp pháp lý trong quá trình tố tụng hình sự: Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn;

10. Liên Hợp Quốc (1998), Quy chế Roma của Tòa án hình sự quốc tế;

11. Mô hình tố tụng hình sư Liên Bang Nga, https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/145, truy cập lần cuối ngày 05/6/2021;

12. Nguyễn Quyết Thắng (2015), Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;

13. Quốc hội, Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, ban hành ngày 27/11/2015 được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017;

14. Quốc hội, Bộ luật Tố tụng dân sự 92/2015/QH13 được ban hành ngày 25/11/2015;

15. Quốc hội, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 được han hành ngày 27/11/2015.

Luật sư LÊ CAO - Luật sư TRẦN HẬU

Bàn về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 BLHS

Lê Minh Hoàng