/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Nâng cao chất lượng định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu

Nâng cao chất lượng định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu

01/01/0001 00:00 |

(LSO) - Các tội xâm phạm quyền sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ trực tiếp xâm phạm an toàn, trật tự công cộng mà còn gây thiệt hại tài sản của cá nhân, tổ chức... Với tính chất nguy hiểm, phổ biến và phức tạp của nó như vậy, song các cơ quan tố tụng lại gặp những vướng mắc trong xác định tội danh và vận dụng điều luật khi giải quyết vụ án. Vẫn còn các trường hợp áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác.

Ảnh minh họa.

Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu là việc xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân.

Định tội đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội. Cần lưu ý rằng, nếu do sai lầm trong định tội danh và sai lầm đó làm cho việc quyết định hình phạt không phù hợp với hành vi đã thực hiện, làm cho bị cáo phải gánh chịu những hậu quả pháp lý không đáng phải gánh chịu, thì sai lầm đó đã vi phạm một cách thô bạo các lợi ích hợp pháp của người bị kết án.

Cũng không kém phần có hại và bất công những trường hợp ngược lại, khi hành vi của người có lỗi cấu thành tội phạm nghiêm trọng hơn nhưng lại được định tội danh theo tội nhẹ hơn, điều đó làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh với tình hình tội phạm và giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, mất niềm tin trong nhân dân.

Để định tội danh đúng, công bằng cần phải có những điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán, hội thẩm nhân dân có văn hóa, có trình độ ý thức pháp luật cao và hiểu biết một cách đúng đắn, sâu sắc các quy định của luật pháp, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, lợi ích của nhân dân.

Ngoài ra, cũng cần phải có những điều kiện chính trị xã hội cần thiết nhất định bảo đảm tính độc lập của tòa án, của các cơ quan điều tra và truy tố khỏi những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài, bảo đảm việc “chỉ tuân theo pháp luật”.

Dưới đây xin kiến nghị một số giải pháp để bảo đảm cho việc định tội danh được chính xác đối với các tội xâm phạm sở hữu:

1.Hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu

Bộ luật Hình sự của Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung rất nhiều lần, nhưng nhìn chung chỉ mới đạt yêu cầu về “giải quyết tình huống” mà chưa thật sự toàn diện. Việc sửa đổi Bộ luật Hình sự phải được coi là một công trình khoa học mang tầm cỡ quốc gia, đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn về vật chất, thời gian, tập trung trí tuệ của nhiều người. Các vấn đề đặt ra phải rất nghiêm túc, trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, không có sự áp đặt chủ quan của cá nhân hay một nhóm cá nhân nào đó.

Phải có tổng kết thực tiễn áp dụng các điều luật về lý luận, đưa ra được những dự báo tương đối chính xác về tội phạm… là những vấn đề rất đáng quan tâm.

Các tội phạm sở hữu được quy định tại Chương XIV của Bộ luật Hình sự hiện hành. Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS 2015) đặt các tội phạm sở hữu ở Chương XVI, là một chương quan trọng vì các điều luật của chương này thường xuyên được áp dụng. Bố cục của phần các tội phạm đều đi theo hướng từ tội nặng đến tội nhẹ trong cùng một chương, từ mối quan hệ xã hội quan trọng cần được bảo vệ đặc biệt đến mối quan hệ xã hội cần hoặc được bảo vệ (theo giá trị của khách thể bị xâm hại). Tuy nhiên, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 Điều 178 BLHS 2015) lại được xếp sau các tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 176 và 177 BLHS 2015). Hai tội này chỉ là loại tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Tương tự như trên, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 179 BLHS 2015) cũng là một tội rất nghiêm trọng (nếu vi phạm vào khoản 3 của điều luật), nhưng lại xếp sau tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội sử dụng trái phép tài sản.

Một số vấn đề cần kiến nghị như sau:

Sắp xếp lại thứ tự của một số tội trong Chương XVI “Các tội phạm sở hữu” BLHS 2015. Cụ thể là đưa Điều 179 “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” và “Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” (Điều 178) lên trước “Tội chiếm giữ trái phép tài sản” và “Tội sử dụng trái phép tài sản”.

Tách Điều 178 BLHS thành hai tội riêng biệt, đó là “Tội hủy hoại tài sản” và “Tội cố ý làm hư hỏng tài sản” và xây dựng chế tài hình phạt của hai tội này khác nhau, theo hướng giảm bớt hình phạt.

Bộ luật Hình sự cần quy định một số điều để khẳng định các tình tiết đã là tình tiết định khung hình phạt thì không là tình tiết định tội riêng biệt. Nên cân nhắc về một số hình phạt bổ sung, trong đó có hình phạt cấm cư trú, đây là loại hình phạt bổ sung không phát huy được tác dụng phòng ngừa tội phạm và nên bỏ ra khỏi Bộ luật Hình sự.

Có 5 tội phạm trong Chương này, điều luật chỉ nêu tội danh, không quy định cụ thể cấu thành tội phạm, đặc biệt là không mô tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nên đã dẫn đến nhiều trường hợp hiểu và thực hiện không thống nhất. Đó là: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), Tội trộm cắp tài sản (Điều 173) và Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác (Điều 178).

Ví dụ như Tội cướp giật tài sản, do điều luật không mô tả hành vi khách quan nên nhiều trường hợp có sự nhầm lẫn trong việc định tội giữa tội này với tội cướp tài sản, nhất là vụ án có dấu hiệu “hành hung để tẩu thoát”. Hoặc như Tội hủy hoại hoặc cố làm hư hỏng tài sản của người khác, do điều luật chỉ quy định chung chung là người nào cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của người khác, không mô tả cụ thể hành vi hủy hoại, hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản nên đã dẫn đến nhiều trường hợp không thống nhất trong việc phân biệt giữa hành vi hủy hoại và hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản; tình trạng của tài sản bị đối tượng phạm tội xâm hại đến mức nào thì coi là làm hư hỏng, đến mức nào được coi là hủy hoại; đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc định tội danh không đúng, không đảm bảo được tính có căn cứ của hình phạt được tuyên, xét xử không đúng người đúng tội, không đúng pháp luật, là một nguyên nhân của tình trạng oan, sai đang tồn tại.

Hành vi thuộc mặt khách quan của một số tội phạm chưa được phân biệt rõ ràng, ví dụ như hành vi đe dọa dùng vũ lực trong Tội cướp tài sản với hành vi đe dọa dùng vũ lực của tội cưỡng đoạt tài sản. Hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hành vi lừa dối khách hàng quy định thuộc chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Với cách quy định như trong các điều luật này, nhiều trường hợp nhầm lẫn, khó phân biệt trong việc định tội, giải quyết vụ án. Hoặc quy định về dấu hiệu “hành vi khác”, “thủ đoạn khác” (đối với Tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản) là chưa rõ ràng dẫn đến thiếu thống nhất trong nhận thức và thực hiện pháp luật.

Đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc quy định hành vi “vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dường như không chính xác, vì hành vi không trả lại tài sản khi đến hạn trả này là vi phạm nghĩa vụ về hợp đồng dân sự hoặc hợp đồng kinh tế mà thôi, việc quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này là đã hình sự hóa một quan hệ dân sự.

Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179) nên tách quan hệ về tài sản Nhà nước sang chương “các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”, vì bản chất của tội phạm này là thông qua các hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý tài sản Nhà nước của người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý, làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, đồng thời nó còn xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, ở một góc độ nào đó nó làm ảnh hưởng sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước; việc chuyển hành vi thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước ở tội này sang chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế sẽ phù hợp hơn.     

2. Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật

Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25/12/2001 của liên ngành tư pháp trung ương cũng có những vấn đề còn gây tranh cãi (tức là tính thống nhất nhận thức chưa thật cao) Ví dụ: điểm 5 phần II của Thông tư này hướng dẫn về trường hợp tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Một người thực hiện nhiều lần cùng hành vi xâm phạm sở hữu mà mỗi lần xâm phạm thấp hơn định lượng tối thiểu của điều luật (chẳng hạn thấp hơn 2 triệu đồng) thì cũng không thật chuẩn xác. Những lần vi phạm đó là một lần vi phạm hành chính hoặc vi phạm kỷ luật, theo hướng dẫn của Thông tư nói trên cũng sẽ được hiểu là nhiều lần vi phạm hành chính, nhiều lần vi phạm kỷ luật thì cấu thành tội phạm? Tức là cứ tái phạm hành chính là phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cùng loại?

Hướng dẫn của liên ngành tư pháp trung ương thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, nhưng cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu đâu phải chỉ bằng biện pháp hình sự mà còn bằng nhiều biện pháp khác, trong đó có biện pháp hành chính (chẳng hạn đưa vào trường giáo dưỡng, tập trung cải tạo…). Thời gian qua, liên tục nhiều năm liền Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao rất ít có nghị quyết hướng dẫn các nội dung liên quan đến định tội danh, từ đó mà việc định tội danh gặp nhiều khó khăn ở các cấp tòa án. Điều đó cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ án bị hủy, sửa, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, do vậy, cần thiết có những nghị quyết hướng dẫn cụ thể, kịp thời hơn.

3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán

Tăng cường hơn nữa trách nhiệm, sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đối với những người làm công tác đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Nâng cao phẩm chất nghề nghiệp, năng lực công tác và trình độ chuyên môn của thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên. Đổi mới phương thức tổ chức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính - tư pháp trong các tòa án theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả và thuận lợi cho công dân; cải tiến phương pháp và lề lối làm việc, đề cao chế độ trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Kiện toàn về tổ chức, tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng thật sự trong sạch, vững mạnh; đảm bảo về số lượng; đảm bảo phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, nhất là đối với thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên. Tăng cường việc đào tạo, đào tạo lại hoặc bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, hội thẩm nhân dân. Làm tốt hơn nữa công tác tổng kết thực tiễn khởi tố, truy tố, xét xử, đặc biệt là công tác định tội danh và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật để kịp thời tháo gỡ các vướng mắt trong công tác khởi tố, truy tố, xét xử. Đảm bảo sự phối hợp trong hoạt động của hệ thống tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm mục đích tăng cường hiệu quả của hoạt động định tội danh.

4. Đổi mới và cải tiến công tác trao đổi, tập huấn nghiệp vụ

Công tác trao đổi nghiệp vụ ở các cấp tòa án nhân dân vừa qua là cần thiết, bảo đảm tính độc lập xét xử vừa bảo đảm có thông tin nghiệp vụ, rút kinh nghiệm giữa các thẩm phán xét xử với nhau, giữa hội đồng xét xử với lãnh đạo ngành tòa án và Ủy ban Thẩm phán.

Công tác này thường xuyên thực hiện khi có khó khăn vướng mắc về đường lối giải quyết khi định tội danh, tuy nhiên nhiều tòa án vẫn còn thực hiện theo kiểu lãnh đạo chỉ đạo, hoặc báo cáo xin ý kiến làm giảm đi vai trò quyết định trong việc định tội danh của hội đồng xét xử. Cần cải tiến và đổi mới công tác này để tránh sự áp đặt, mệnh lệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho thẩm phán, hội đồng xét xử phát huy vai trò và năng lực tốt nhất trong giải quyết vụ án. Việc tập huấn định kỳ là nhằm phổ biến những quy định mới, những hướng dẩn, bổ sung mới của pháp luật. Tuy nhiên, công tác tập huấn ở nhiều nơi vẫn còn mang nặng tính hình thức theo định kỳ, nội dung thì đơn điệu, nghèo nàn, tài liệu giáo trình vẫn như cũ, báo cáo viên không qua chuyên môn hoặc không quyết định hay giải thích nổi các thắc mắc của học viên, không đưa ra được kết luận để hướng dẫn thực hiện. Do vậy, cần phải tập trung nâng cao chất lượng của các lớp tập huấn về nội dung thì mới đáp ứng được yêu cầu của việc giải quyết các vụ án nói chung và của việc định tội danh nói riêng.

LÊ HOÀNG TẤN

/quy-dinh-moi-ve-thi-thang-hang-chuc-danh-nghe-nghiep-vien-chuc.html